-
CHƯƠNG 19
PHẦN 5
DUYÊN TIỀN ĐỊNH
Trời kia còn có ÂM DƯƠNG
Cha Trời còn phải nhớ thương Mẹ Trời
ÂM DƯƠNG có bạn có đôi
Đất Trời tỏa sáng, Đạo Đời Nở Hoa
Người ta truyền giống người ta
Lưu truyền nòi giống để mà tồn vong
Duyên Trời đã định ai thông
Huyền Cơ Tạo Hóa vợ chồng nên đôi.
Nói về con gái của Đế Lai. Phụng Cơ Công Chúa, sắc nước hương Trời, kén chọn mãi. Tuổi đã 27 mà không có ai vừa mắt Phụng Cơ Công Chúa, không những có sắc đẹp hoa nhường Nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa. Mà Cầm Kỳ, Thi Họa xuất chúng, văn võ song toàn. Tài – Đức hiếm thấy. Lại thêm có nghề thủ công khéo léo. Chăn tằm dệt cửi, may vá thêu thùa có một không hai trên đời. Từ khi Công Chúa xem bảy bức thông điệp họa tiết đàm phán, do Vua Hùng vẽ ra. Họa Tiết sống động như thật, văn hoa xuất chúng, ý nghĩa sâu xa, hàm ý rộng lớn. Đàm phán nội dung mềm yếu như Nước. Nhưng cũng cứng rắn hơn sắt thép, kim cang. Chiến cũng đó mà hòa cũng đó. Cái lợi đem đến cho người. Có cái lợi về mình trùm bá mà không mấy ai thấy nổi.
Tuy hai Nước giao hòa. Nhưng kỷ cương phép Nước như tường Đồng vách Sắt. Khó mà xâm phạm mưu đồ bất chính. Bắt tay hợp tác xúc tiến làm ăn. Nhưng vẫn thể hiện chủ quyền Độc Lập Nam Bắc. Hòa hợp nhưng không hòa tan. Bản sắc Cội Nguồn không mất. Hai Dân Tộc Nam Bắc như hai Vườn Hoa đầy màu sắc, để rồi hướng về tô thắm sắc xuân.
Công Chúa nghĩ thế gian có người như thế mà ta không nghĩ đến. Càng nghĩ tâm hồn Công Chúa càng xao xuyến nghĩ vẩn nghĩ vơ, biếng ăn biếng ngủ. Công Chúa mỗi ngày mỗi tiều tụy đi thấy rõ.
Đế Lai thấy Công Chúa mỗi sa sút, nói:
Có điều gì mà làm cho con không được vui.
Công Chúa nói:
Thưa Cha con không có bệnh tình gì cả, mấy tháng nay con hơi mất ngủ thế thôi. Thưa Cha con muốn vân du dạo chơi một chuyến. Để cho tinh thần thoải mái trừ đi căn bệnh mất ngủ.
Đế Lai cho phép. Công Chúa liền chọn 2 Hầu Nữ xinh đẹp võ nghệ cao cường vân du ngoạn cảnh. Đến những nơi đẹp nhất của ba Nước Tây – An – Dương của ba anh em nhà Đế Lai. Nhưng Công Chúa vẫn cứ buồn rười rượi. Một hôm Công Chúa tới sông Trường Giang nhìn về Phương Nam đến xuất thần, nghĩ thầm, ta vẫn thường nghe nói Nước Xích Quỷ giàu lắm, nay là Nước Văn Lang lại càng giàu hơn nữa. Ta muốn qua đó dạo chơi cho biết. Bằng nói với hai Hầu Nữ rằng nơi đây Dân Cư cũng khá đông đúc, hai ngươi ở đây chờ ta. Nói xong Công Chúa giục Thần Mã bay qua sông, bay sâu vào đất liền nghe trống hội liền hạ chân xuống.
Tiết xuân vầy cuộc nở Hoa Xuân
Tăm tắp đồng quê cánh cò dừng
Rộn ràng trống hội nơi quê xốm
Xuân tình xuân nghĩa, nước non xuân.
Công Chúa thấy mình vui hẳn lên, vó Ngựa chầm chậm vượt qua bao Làng xóm, cảnh làng quê đẹp như tranh vẽ. Đường lượn uốn quanh uốn khúc như Rồng bay Phụng múa. Nối đuôi bay mãi dài rộng theo đất nước.
Giao thông cầu nối khắp nơi
Liền Châu liền Huyện liền thời xóm thôn
Đường về biển đường lên non
Đường đi Nam Bắc, đường đi về Nguồn
Khắp nơi hội Xóm hội Làng
Tiếng chày giã gạo, tiếng Nàng hát ru
Lụa là quần áo đua chen
Văn Lang cuộc sống Rồng thăng Phụng chầu
Thiên đàng cuộc sống thiên đàng
Ấm no hạnh phúc, đâu còn nghèo xơ
Sống đời sung sướng tự do
Văn Lang cuộc sống lên đò sang tiên.
Phụng Cơ Công Chúa nhìn cảnh giàu sang của Nước Văn Lang. Thái bình an Lạc hội Châu hội Huyện khắp nơi khắp chốn. Công Chúa cảm thấy lòng mình sung sướng. Công Chúa cũng không giải thích nổi tại sao lòng mình lại như thế. Công Chúa thả hồn theo Non Nước Văn Lang. Mặc cho Thần Mã đi đâu thời đi đến khi Công Chúa giật mình thì đã lạc vào thế giới Bồng Lai Tiên Cảnh. Nơi Động Lăng Xương. Nơi đây cảnh vật đẹp như tranh vẽ, hoa soi suối nước, mây soi vóc mình. Đá im tĩnh lặng, suối nước Lung Linh. Gió đi tìm bạn. Cây nghe nhạc rừng.
Động Thiên thác nước phủ màn
Thác reo chim hót gió đàn rừng ca
Hương Hoa thoang thoảng tỏa ra
Ngẩn ngơ chú Bướm cùng là chú Ong
Động thiên mây lượn giăng giăng
Núi ôm mây khói, mây hằng đèo mây
Cành chen sắc lá hoa lay
Cảnh chen ánh nắng chim bay ngắm nhìn
Cảnh vui người lại hữu tình
Người vui người lại ngắm nhìn cảnh vui.
Công Chúa đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật, vô tình đụng cây sáo thần mà sư phụ đã ban cho. Lúc nào cảm thấy vui thì thổi lên. Bài Mai – Lan – Sen – Cúc. Bốn mùa rực cánh hoa. Bài hội ngộ Duyên tình lai láng tràn đầy chan chứa khắp nơi. Công Chúa liền lấy sáo Thần ra thổi bài Mai – Lan – Sen – Cúc. Tức thời Tiên Nữ xuất hiện múa hát theo tiếng sáo Thần của Công Chúa. Thế là cảnh Bồng Lai Tiên giới thực thụ xuất hiện ra.
Nói về Quốc Tổ Hùng Vương mải mê lo xây dựng non sông Tổ Quốc Văn Lang. Đã 35 tuổi mà chưa có vợ. Vua Hùng Quốc Tổ ra Bắc về Kinh Đô Xích Quỷ chỉ đạo điều hành đất nước. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng sáo làm cho Vua Hùng quên đi cả mệt mỏi. Tâm Hồn nhẹ bổng. Quốc Tổ Vua Hùng bị thu hút bởi tiếng sáo thần kỳ ấy. Liền cho ngựa vượt lên tìm người thổi sáo. Tưởng là tiếng sáo thổi ra ở gần, nào hay đâu ngựa phi nước đại cả nửa giờ mà vẫn chưa tới. Cho đến khi nhìn thấy trước mặt là núi non trùng điệp. Mây phủ giăng giăng, đèo mây lớp lớp, đường lên cõi Trời. Bỗng dưng tiếng sáo im bặt. Vua Hùng nghĩ hỏng mất biết đâu mà tìm. Có lẽ ta không gặp được người nầy. Vua Hùng định thôi không tìm nữa nhưng sau đó sáo lại nổi lên. Vua Hùng đã định hướng nhận ra nơi phát ra tiếng sao cách đó không xa chừng hơn 2 dặm. Quốc Tổ Vua Hùng quay lại nói với các quan. Các Khanh chờ ta ở đây. Nói xong Quốc Tổ phi ngựa Thần biến mất đến nơi chỗ tiếng sáo phát ra.
Nói về Phụng Cơ Công Chúa, còn thổi sáo thì còn Tiên Nữ bay lượn múa hát. Tiếng sáo dứt thì Tiên Nữ cũng biến mất. Công Chúa nghĩ ta làm sao giữ lại các Tiên Nữ hỏi xem Tiên Nữ từ đâu đến. Thế là Công Chúa lại tiếp tục thổi sáo. Tiên Nữ lại hiện ra bay lượn múa hát. Có lẽ Công Chúa đang chú tâm thổi sáo, không phát hiện ra có người đã đến gần. Thế ra người đến gần người thổi sáo đó chính là Vua Hùng. Quốc Tổ phi ngựa Thần lướt trên rừng cây hạ xuống nhẹ nhàng không tiếng động. Quốc Tổ Vua Hùng xuống ngựa đi đến gần người thổi sáo. Tuy là không thấy mặt người thổi sáo, Vua Hùng cũng cảm nhân ra người thổi sáo là một người con gái còn rất trẻ xinh đẹp tuyệt trần, vì tôn trọng người thổi sáo. Vua Hùng thưởng thức yên lặng lắng nghe. Nhìn Tiên Nữ bay lượn múa hát nghĩ là mình đang ở cõi Trời, trên Cung Vương Mẫu.
Nói về Công Chúa đang thổi khúc Mai – Lan – Sen – Cúc bốn mùa rực thắm cánh hoa. Bỗng cao hứng Công Chúa thổi luôn khúc Duyên Tình hội ngộ. Tiếng sáo du dương lai láng Tình Duyên, tràn đầy cảm xúc.
Vua Hùng không cầm được lòng mình lên tiếng khen:
Thổi hay quá.
Công Chua nghe tiếng khen giật cả mình quay lại nhìn người khen mình. Thì không khỏi giật mình e thẹn, vì người đối diện oai vệ uy nghi, khôi ngô tuấn tú như Thiên Tiên ở cõi Trời.
Công Chúa chưa kịp nói gì. Thời các Tiên Nữ đến chào Công Chúa nói:
Chúng em là Tiên Nữ Cung Vương Mẫu ra mắt Công Chúa.
Các Tiên Nữ lại cung kính bái lạy Quốc Tổ Vua Hùng nói:
Thiên Vương Cung Tiên Nữ xin ra mắt Chí Tôn Quốc Vương.
Quốc Tổ Vua Hùng phất tay nói:
Miễn lễ.
Phụng Cơ Công Chúa nghe các Tiên Nữ gọi người trước mặt là Chí Tôn Quốc Vương. Công Chúa nghĩ ngay đến người trước mặt chính là Hùng Vương. Quả tim Công Chúa đập loạn xạ vì người trong mơ đã xuất hiện ra trước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng nghe Tiên Nữ gọi người thổi sáo là Công Chúa. Thời Vua Hùng đã nhận ra người con gái thổi sáo là Công Chúa lân Bang. Còn đón ra tên của Công Chúa là Phụng Cơ.
Vua Hùng thi lễ Công Chúa rồi hỏi:
Quí Quốc mạnh khỏe không? Công Chúa biết nơi nầy lâu chưa. Công Chúa đi chơi xa đến thế.
Công Chúa đáp lễ nói:
Quốc Vương hỏi Quí Quốc nào, nhân lúc vân du đi lạc đến đây.
Vua Hùng đáp:
Tôi hỏi thăm Quí Quốc Đế Vương gia Cha của Phụng Cơ.
Phụng Cơ nghe nói thế liền biến sắc mặt, mở hai con mắt thật to nhìn Hùng Vương hỏi:
Người là Chí Tôn Hùng Vương thật sao?
Hùng Vương gật đầu.
Phụng Cơ thi lễ nói:
Người ta đồn rằng, không có cái gì, bí mật gì mà Hùng Vương không biết.
Nói tới đó Công Chúa bỗng đỏ mặt. Như sợ Hùng Vương thấy rõ lòng mình. Nhìn Phụng Cơ đáng yêu như vậy, Vua Hùng cảm thấy xao xuyến trong lòng. Thật ra Vua Hùng đã cảm mến ngay lúc vừa mới đến nhìn thấy Phụng Cơ. Hai người càng lúc càng tâm đầu ý hợp. Thế là như đôi chim liền cánh, như cây liền cành. Cảnh gió đưa Mây, Mây đưa gió. Ngày thời dạo cảnh Bồng Lai, đêm về Động hàn huyên tâm sự. Thác nước, Động Thiên ru giấc ngủ hai người.
* * *
Hết phần 5 chương 19 mời xem tiếp phần 1 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
CHƯƠNG 20
PHẦN 1
ĐỨC CỦA BẬC LÀM VƯƠNG
Quả là 1 cuộc sống Thần Tiên, ngoài trần tục. Sống chung với Hùng Vương bảy ngày thật vui vẻ. Phụng Cơ như trẻ lại tăng thêm vẽ xuân xanh.
Nhân lúc Vua Hùng vui vẻ. Phụng Cơ nói:
Người ta đồn Vua Hùng là Chí Tôn con Trời xuống thế, ai nấy cũng sợ, lại là vì vua hết sức nghiêm minh. Nhưng thật ra thiếp thấy Vua Hùng không những dễ mến, mà còn rất chân thật. Hiền hòa, giản dị, ai cũng thích gần gũi. Thiếp đây cũng chẳng muốn rời xa người.
Quốc Tổ Vua Hùng nói:
Thần Thánh cũng là con người. Các Thiên Đế trên Trời cũng có vợ có con. Huống chi ta chỉ là Vua của người phàm tục. Mà Vua cũng chỉ là con người, chẳng khác gì Thiên Hạ muôn dân. Ta nhờ Hồng Đức của Ông Bà Cha Mẹ, lại được Trời ban cho phước lớn. Nên mới được ngày hôm nay. ÂN Trời Đất, ÂN Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên. ÂN Bá Tánh muôn Dân Đồng Bào. Ân Tổ Quốc những người vì Dân vì Nước. Ta trả nợ bốn ơn ấy quá lớn. Lo báo đáp còn chưa xong. Có đâu cậy quyền ỷ thế làm hại ân nhân mình. Họ vì lời kêu gọi của ta. Họ đã ngã xuống đưa ta lên tận đỉnh vinh quang. Làm Vua chẳng qua là Đại Diện cho Dân ở cương vị tối cao trụ cột. Đi đầu kỉ cương phép Nước, luật chung. Nếu Vua vì tư riêng mà làm hại cho Dân cho Nước, thì cũng sẽ bị Luật Công phép Nước xử như thường. Nghe những lời lẽ đầy Chân Chính. Đức Độ trùm Thiên Hạ. Là vị Quốc Vương gương mẫu, mẫu mực, đứng đầu Hiến pháp, Luật pháp, Công lý, Đạo Đức. Để cho Quan, Quân, Dân noi theo làm theo.
Công Chúa như đã thấy Thái Sơn ngay trước mắt. Liền quỳ xuống nói:
Thiếp có mắt cũng như mù. Thái sơn ngay trước mắt mà không hay không biết. Chí Tôn Quốc Vương không chỉ là Vua của Nước Văn Lang mà còn là Đấng Cứu Thế. Thiếp thật đáng tội chết vì đã lỡ yêu người.
Quốc Tổ Vua Hùng đỡ Phụng Cơ dậy nói:
Ta cũng yêu Nàng. Cha Trời, Mẹ Trời còn chung sống với nhau sanh con đẻ cái. Huống chi ta cũng chỉ là con của Trời. Vua cũng cần có Vợ, có con nối dòng dõi duy trì nòi giống con người mà Tổ Tiên có công tạo lập ra. Tình yêu không có tội tình yêu là lẽ sống của con người.
Quốc Tổ Vua Hùng nhìn Công Chúa với cái nhìn đầy nghiêm túc, mặt đối mặt lòng đối lòng rồi hỏi:
Công Chúa có ưng thuận làm Hoàng Hậu Nương Nương của Nước Văn Lang Đại Nam chăng?
Lời cầu hôn của Quốc Tổ Hùng Vương làm Công Chúa xúc động, xúc động đến mức ngã ngay vào lòng của Vua Hùng như muốn giữ mãi lời cầu hôn đó sợ nó bay đi đâu mất. Hùng Vương thấy Công Chúa tình sâu nghĩa nặng như vậy, tuy gần gũi nhau chưa được bao lâu. Nhưng lúc nào Công Chúa cũng dân hết tình yêu cho Hùng Vương. Vì thế Hùng Vương rất yêu thương Công Chúa.
Quốc Tổ Hùng Vương có biết đâu. Công Chúa yêu Hùng Vương từ mấy năm về trước, hàng đêm mất ngủ, hoa dung tàn tạ đã làm giảm đi vóc dáng yêu kiều của Nàng, làm cho Đế Lai phải lo lắng. Lời cầu hôn của Hùng Vương như cam lộ chảy vào lòng Công Chúa. Trong phút chốc Công Chúa như người khác. Hoa dung đầy đặn tươi thắm rực rỡ. Làm cho cảnh quan bừng lên ánh rực hồng theo rực rỡ của Nàng Công Chúa vốn đã xinh đẹp giờ đây càng thêm xinh đẹp.
Quốc Tổ Vua Hùng kinh ngạc nhưng chợt hiểu ra. Tình yêu là thế, chỉ có tình yêu mới làm cho con người thay đổi mau chóng, ánh mắt Công Chúa như trỗi dậy vạn mùa xuân, chang chứa lênh láng tình yêu, dâng tặng hết cho người mình yêu.
Công Chúa gật đầu ưng thuận chấp nhận lời cầu hôn của Vua Hùng. Nghe Công Chúa chấp nhận lời cầu hôn của mình. Quốc Tổ nghe lòng mình ấm áp nói. Có lẽ đây là nhân duyên tiền định. Cha Trời Mẹ Trời tác hợp đôi ta. Nàng lạc bước đến đây, còn ta thời tìm người thổi sáo, đưa đường dẫn lối cho hai ta gặp nhau. Công Chúa mỉm cười gật đầu. Nhưng sau đó Công Chúa linh cảm là sắp chia tay với người mình yêu. Một nỗi buồn len lỏi vào tâm hồn. Quốc Tổ cũng có cảm giác như thế. Các Tiên Nữ theo hầu Quốc Tổ cũng như Công Chúa, nhìn ánh nắng vàng ngả màu, nắng ốm vì sắp lặng về Tây. Các Tiên Nữ vái lạy hai người rồi nói. Đã gần sắp hết 7 ngày. Chúng em phải về Trời, nói xong các Tiên Nữ đồng biến mất.
Chiều tà vàng ốm bệnh vì đâu
Bệnh sắp lặng non nhớ Hoàn Cầu
Phụng Rồng hội hiệp tình say đắm
Bỗng nghe rồm rộp tiếng vó câu
Quan Quân Tướng sĩ kìa đã đến
Đón rước Vua Hùng trễ nải lâu
Phụng Cơ lưu luyến tình nồng ấm
Gió lặng Mây tan nở vạn sầu.
Nói về Quốc Tổ Vua Hùng thấy Quan Quân kéo đến chưa kịp hỏi. Thì các Quan văn võ quỳ lạy tung hô:
Quốc Vương vạn tuế. Chúng Thần hộ giá đến trễ xin Quốc Vương tha tội.
Vua Hùng phất tay nói:
Miễn lễ, miễn lễ.
Quốc Tổ Vua Hùng hỏi:
Ai chỉ đường cho các khanh đến đây tìm ra chỗ nầy.
Các Quan thưa:
Quốc Vương đi lâu quá vắng bóng 7 ngày 7 đêm, chúng Thần lo sợ không biết lành dữ thế nào. Thì có một vị Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường hướng dẫn đến đây.
Công Chúa nhìn thấy các quan tướng Văn Lang, người nào người nấy oai phong lẫm liệt. Đầu tỏa hào quang. Thời nghĩ các người mới đến là các vị Thánh, ở thượng giới xuống. Chừng thấy các Quan Tướng quỳ lạy tung hô vạn tuế. Thì mới tin rằng đó là các Quan Tướng Văn Lang. Công Chúa Phụng Cơ nghĩ, cũng đúng các Quan Tướng Văn Lang phần lớn ở hội Long Vân ra. Các Ngài đã hội ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, Minh Tâm kiến tánh hội ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Ngài là Phật – Thánh – Tiên. Thần, Chúa cả rồi. Mãn kiếp trần các Ngài sẽ làm Vua làm Chúa khắp các cõi Trời giáo hóa Thiên Chúng. Theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Các Quan Tướng Văn Lang là các vị Đại Thánh. Đều hiểu rõ Chí Tôn Quốc Vương. Không ai có thể làm hại được. Các Quan Tướng theo lời dặn của Quốc Tổ ở lại chờ đợi. Đã gần hết 7 ngày, các Quan nhìn về dãy núi trước mặt. Thấy mây lành nơi đó biến mất. Thời biết Vua Hùng Quốc Tổ sắp trở lại. Cũng vừa lúc ấy có một Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường cho Quan Quân đến gặp Vua Hùng. Nên Quốc Tổ Vua Hùng mới hỏi ai chỉ đường cho quan quân tới đây.
Nói về các Quan Tướng khi thấy bên cạnh Quốc Tổ Vua Hùng, có một người con gái cao sang quí phái, sắc nước hương Trời, Hoa Dung lộng lẫy, thì lấy làm mừng lắm. Điều lo lắng nhất của các Quan Tướng là sợ Quốc Vương Chí Tôn không lấy vợ, vì thấy Chí Tôn Quốc Vương tuổi đã lớn mà không nghe Quốc Vương đá động gì đến chuyện lập Quốc Hậu, chỉ lo mải mê xây dựng đất nước Văn Lang. Thấy các Quan Tướng chăm chú nhìn Phụng Cơ.
Quốc Tổ Vua Hùng nói:
Các Quan Tướng ra mắt Quốc Hậu đi.
Như một lời xác nhận các Quan Tướng hết sức vui mừng đồng loạt tiến đến trước mặt Công Chúa hành lễ:
Chúng Thần xin ra mắt Quốc Hậu Nương Nương.
Công Chúa phất tay nói:
Các Quan các Tướng miễn lễ.
Nhìn ánh tà Dương sắp lặng Quốc Tổ Hùng Vương nắm tay Công Chúa nói:
Cuộc vui nào cũng đến hồi chấm dứt, sum họp rồi chia ly, chia ly rồi sum họp. Còn duyên nợ thì không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Hết duyên hết nợ dù có ở bên nhau cũng cách xa hàng vạn dặm. Chúng ta chia tay nhau tại đây, Nàng về Quí Quốc, còn ta về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, xong công việc ta cho người đem lễ vật sang Thành Đế An đón rước Nàng về Kinh Đô Văn Lang.
Công Chúa bịn rịn không muốn chia tay. Bỗng nghe tiếng Bạch Long Mã Hí, Công Chúa liền huýt sáo tức thời một con Ngựa Thần xuất hiện. Công Chúa nhìn Vua Hùng chia tay lần cuối, rồi phóng mình lên con Thần Mã. Thần Mã bay lên không, nhắm hướng Bắc bay đi. Quốc Tổ Vua Hùng nhìn theo cho đến khi người ngựa mất dạng. Các Quan các Tướng cùng Quốc Tổ lên đường nhắm hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ xuất phát.
Nói về hai Hầu Nữ của Công Chúa nhìn con sông Trường Giang rộng lớn nước chảy cuồn cuộn, bồ xa bồ xít miệng thì cứ lẩm bẩm: Không hiểu Công Chúa có chuyện gì không, sao mà đi lâu thế gần hết 7 ngày rồi còn gì. Mặt Trời đã bắt đầu khuất núi. Màn đêm buông lần che khuất tầm nhìn, hai Hầu Nữ chợt nghe tiếng Ngựa hí, trên không tiếng Ngựa hí quen thuộc thì ra Công Chúa đã trở lại, hai Hầu Nữ thở phào nhẹ nhõm.
Nhìn hai Hầu Nữ mừng rơi nước mắt, Công Chúa cảm động nói:
Hai người chờ lâu quá sanh ra đâm lo cho ta phải không?
Hai Hầu Nữ lặng thinh gật đầu. Dưới ánh Trăng sáng tỏ ba chủ tớ, vó Ngựa rồm rộp trở lại Thành Đế An. Đêm đã khuya nhưng Thành Đế An vẫn còn sôi động, khác mọi khi, chuyện gì thế, Công Chúa tự hỏi.
Nói về Mẹ của Công Chúa bồn chồn lo âu, sao Công Chúa lại đi chơi lâu như vậy. Nghe tin Công Chúa trở về vội đến hỏi thăm, vừa gặp Công Chúa.
Đế Nương liền hỏi:
Con đi chơi gì mà đến hơn cả tháng, làm cho Cha Mẹ lo lắng. Con nói con chỉ đi chơi vài ngày nhưng lần nầy sao con đi chơi lâu quá. Dù cho con đến Thành Tây Đế – Đông Đế cũng không lâu đến thế. Tây An Dương là ba nước của ba anh em nhà Đế Lai.
Công Chúa nghe mẹ quở mắng nhưng vẫn mỉm cười, hỏi:
Mẹ sao Thành Đế An ta vui nhộn thế. Đêm đã khuya mà phố xá vẫn còn đông khách, là chuyện gì thế hở Mẹ.
Mẹ Công Chúa trả lời:
Chuyện của con chớ còn chuyện gì nữa.
Công Chúa nghe Mẹ nói thế ngơ ngác không hiểu gì cả. Đế Hậu Nương nói:
Cha con đã ra cáo thị thông báo, là tuyển chọn Phò Mã đã hơn nữa tháng nay rồi. Các Nhân Tài khắp đất trung nguyên, có cả các nước ở Bắc Á. Họ đã đem lễ vật đến cầu hôn. Có hơn mấy mươi Công Tử, Thái Tử người nào người nấy gia thế uy phong, tài năng xuất chúng. Cha con đã nhận hết lễ vật của họ rồi. Nhìn vào lễ vật cầu hôn cũng đánh giá được họ toàn là những gia thế giàu có.
Công Chúa nghe xong mặt liền biến sắc, kinh hoàng. Công Chúa nói sao:
Cha Mẹ không đợi con về, để hỏi con có bằng lòng lấy chồng chưa đã chứ.
Đế Hậu Nương Nương nói:
Còn hỏi gì nữa, con quên rồi sao, hôm con mười tám tuổi. Cha con gã con có Chồng chọn phò mã. Con nói để con lựa chọn. Cha con nói con lựa chọn đến chừng nào. Con nói đến 26 tuổi. Cha con đã nổi giận đùng đùng không chấp nhận lời đề nghị của con. Vì con gái đến tuổi ấy thì còn gì là tuổi thanh xuân nữa. Mẹ khuyên can mãi, Cha con mới chấp nhận lời yêu cầu của con. Nay con đã 27 tuổi rồi còn gì. Vì thế mà Cha con quyết định, định đoạt hôn sự cho con. Ngày mai con phải lên đường theo Chồng.
Công Chúa hốt hoảng la lên:
Gấp đến thế sao.
Đầu óc Công Chúa rối loạn: Ta biết phải làm sao đây?
Đế Hậu Nương Nương nói:
Lúc Mẹ có Chồng mới 16 tuổi, nay con 27 tuổi, thì đã quá muộn màng. Lần nầy con không có lý do gì để mà từ chối nữa đâu. Sau khi Cha con tuyển chọn nhân tài xong chọn ra mười người và con sẽ chọn một trong mười người đó lấy làm Chồng phò mã.
Và đêm ấy Công Chúa trằn trọc mãi, ta phải làm sao đây. Trốn ư, nhưng bằng cách nào. Ta là Công Chúa mà làm thế sao được. Rồi danh dự của Cha ta thì sao. Danh dự của một Đế Vương uy lực nhất Trung Á. Công Chúa càng nghĩ càng rối bời.
Ông Mặt Trời đã dậy, đánh thức quê hương chuyển mình một ngày mới. Tiếng chim ríu rít ca hát nhảy múa líu lo. Nhưng Công Chúa lòng đầy nặng trĩu. Tiếng Trống Công Chúa lại hốt hoảng, tiếng trống mở hội tuyển chọn nhân tài. Người từ các ngả đường lũ lượt kéo về Thành Đế An càng lúc càng đông. Tiễn đưa Công Chúa xuất giá theo Chồng. Chỉ trong vòng một đêm Công Chúa gầy đi rõ. Mặt Trời đã lên cao mà Công Chúa vẫn nằm ỳ không muốn dậy mà có dậy cũng không nổi, ráng gắng gượng lắm Công Chúa mới ngồi lên. Tiếng trống tuyển chọn nhân tài đã kết thúc. Đế Lai đã chọn ra được mười người.
Công Chúa thét lên: Thế là hết. Bỗng Công Chúa nhớ lại lời nói của Quốc Tổ Vua Hùng. Còn duyên còn nợ thì không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Công Chúa đang u sầu bỗng tươi tắn hẳn lên, Công Chúa đã đi đến một quyết định.
Công Chúa nói với hai con Hầu Nữ:
Nội trong ngày nay ta phải xuất giá theo Chồng. Mà Cha ta đã giao quyền cho ta quyết định lựa chọn, một sự lựa chọn cuối cùng cho dù người đó là ai.
Công Chúa liền ngâm bài thơ:
Nhớ buổi kề nhau cặp Phụng Rồng
Thắm tình thắm nghĩa thắm non sông
Nở nụ tầm xuân đời xanh biếc
Rực thắm tình yêu rực sắc hồng
Đôi tim hòa nhịp cùng chung lối
Thỏ dậy nhớ Tà bóng đêm đông
Đôi quả tim chung giờ chia cách
Bắc Nam vời vợi Phụng nhớ Rồng.
Tiểu Xuân nghe bài thơ Công Chúa ngâm hai con mắt sáng rực lên nói:
Công Chúa, Công Chúa có người yêu rồi sao?
Công Chúa gật đầu, hai Hầu Nữ Tiểu Xuân, Tiểu Hạ kinh ngạc hỏi:
Người ấy là ai thế?
Công Chúa thở dài nói:
Người ấy là Hùng Vương. Vua Hùng nước Văn Lang.
Tiểu Hạ, Tiểu Xuân như không tin ở lỗ tai mình. Nhưng đây là sự thật, do miệng Công Chúa nói ra. Tiểu Xuân, Tiểu Hạ nhìn Công Chúa xuất thần, như đang ôn lại những giây phút quí giá mà Công Chúa không thể nào quên được.
Tiểu Hạ nói với Tiểu Xuân:
Thời gian quá gấp biết làm sao đây.
Tiểu Xuân nói:
Ở vào tình thế nầy. Tự mình xuất giá theo chồng về với Hùng Vương. Nước Văn Lang là Đất Nước giàu có hùng mạnh. Không có một Đất Nước nào sánh kịp. Công Chúa làm Quốc Hậu Nương Nương Văn Lang. Thì không uổng phí tài sắc Công Chúa. Không Nước nào dám động đến Nước Văn Lang đâu. Một sự lựa chọn, không có sự lựa chọn nào hơn được.
Công Chúa nhìn Tiểu Xuân kinh ngạc:
Ngươi hiểu ý ta.
Tiểu Xuân sợ hãi đáp:
Công Chúa tha cho Tiểu Nữ, Tiểu Nữ chỉ suy lòng Tiểu Nữ mà thôi.
Công Chúa nói:
Ngươi thông minh như vậy, ta dẫn ngươi theo.
Tiểu Hạ lên tiếng:
Còn Tiểu Hạ thì sao?
Công Chúa nói:
Cả ngươi nữa.
Hai Hầu Nữ mừng quá liền tạ ơn Công Chúa. Công Chúa nói:
Tiểu Xuân, dạ có Hầu Nữ. Ngươi tìm cách tới chuồng Ngựa chuẩn bị sẵn, hết sức cẩn thận đừng làm lộ chuyện.
Công Chúa Phụng Cơ tìm gặp mẹ nói lên sự yêu cầu. Là đến lúc chiều tà gần đến lúc Hoàng hôn thì con mới chọn phò mã. Đế Lai chấp nhận lời yêu cầu con gái.
Nói về Quốc Tổ Hùng Vương vừa đến Kinh Thành Xích Quỷ, thì đã nghe các Quan các Tướng ở đây xầm xì về Công Chúa con của Đế Lai. Ba Nước Tây An Dương ba anh em nhà Đế Lai chuẩn bị cho ngày vui Công Chúa Đế Lai chọn Phò Mã. Quốc Tổ Vua Hùng nghe tin ấy không lấy làm chi lạ. Đến khi nghe Công Chúa, ngày nay chính là ngày xuất giá thì Quốc Tổ giật mình, hỏi lại về câu chuyện của Công Chúa.
Các Quan kể:
Nghe nói Đế Lai có cô con gái tài sắc nổi tiếng, danh vang khắp Nam, Trung, Bắc. Nhưng phải nổi Công Chúa Phụng Cơ rất kén chọn, nay Công Chúa đã 27 tuổi mà vẫn chưa chọn được người vừa ý. Vì sự lựa chọn của Công Chúa quá khắc khe, đã làm cho Đế Lai bực bội. Có lẽ Đế Lai thấy con càng ngày càng lớn tuổi, xuân bất tái lai, xuân người tuổi thanh xuân đi qua, không bao giờ trở lại. Nên Đế Lai tự quyết định cuộc hôn nhân nầy. Ngày nay là ngày Công Chúa phải chọn lấy phò Mã, ngày quyết định theo chồng.
Quốc Tổ nghe xong không nói gì, chỉ lo phê phán tấu chương do các Châu các Bộ gửi về. Quốc Tổ cho người chuẩn bị một số lễ vật để sẵn. Quốc Tổ phê tấu chương, điều hành chỉ Đạo mau chóng, chưa đầy một ngày là xong tất cả. Nhìn Mặt Trời đã ngả về Tây. Quốc Tổ gọi Quốc Sư Thục Lục đến. Quốc Sư tuy hơn trăm tuổi. Nhưng vẫn còn đầy sự sống, sắc thái minh mẫn.
Quốc Sư tham kiến hành lễ rồi nói:
Quốc Vương cho mời Thần đến có điều chi dạy bảo.
Quốc Tổ Hùng Vương nói:
Nước Xích Quỷ tuy chuyển thành Nước Văn Lang. Nhưng Nước Xích Quỷ vẫn còn tồn tại mãi trong tâm hồn của người Dân Âu Việt, Lạc Việt không bao giờ phai. Quốc Sư của Nước Xích Quỷ, mãi mãi là Quốc Sư của Nước Xích Quỷ. Quốc Sư thay mặt ta điều hành đất nước. Kinh Đô Xích Quỷ Nam Kinh là Kinh Đô Quốc Phòng. Kinh Đô bảo vệ Lãnh Thổ Nước Văn Lang. Còn Kinh Đô Văn Lang là Kinh Đô Kinh tế.
Nói xong Quốc Tổ Hùng Vương trao gươm lệnh cho vị Quốc Sư tài năng Thục Lục. Quốc Sư Thục Lục nhận gươm lệnh mà rơi nước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng luôn luôn sống theo Đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn ăn quả nhớ người trồng cây.
Quốc Tổ Vua Hùng trao gươm lệnh xong nói:
Quốc Sư thay ta điều hành Đất Nước Xích Quỷ theo giai đoạn mới. Nếu không có việc gì nghiêm trọng khó giải quyết. Thì Quốc Sư có quyền quyết định tất cả.
Quốc Sư Thục Lục nói:
Được làm con Dân của Quốc Vương là may mắn phước lớn lắm rồi. Huống chi là Quốc Vương không chê tuổi già còn giữ chức Quốc Sư thay quyền Quốc Vương lo cho Dân cho Nước. Thì còn biết nói gì hơn. Thần chỉ biết hết lòng lo cho Dân cho Nước, phó thác của Quốc Vương.
Nhìn Mặt Trời sắp lặn về Tây. Quốc Tổ nhớ đến Công Chúa Phụng Cơ. Quốc Tổ liền chọn số Quan Tướng. Thì trên không trung xuất hiện một đám mây.
Cao Tằng, Cao Tổ, Cao Tông từ trên đám mây bay xuống trước mặt Vua Hùng hành lễ xong rồi nói:
Chúng Thần đến trễ xin Chí Tôn Quốc Vương tha thứ, sánh lễ Cầu Hôn cũng như kiệu rước Quốc Hậu Nương Nương đã có đủ. Có các Tiên Nữ từ Cung Vương Mẫu xuống đón rước Phụng Thiên Vương Mẫu về Kinh Đô Văn Lang.
Các Quan Tướng theo hộ giá Quốc Tổ giờ đây mới hiểu. Người con gái gặp ở động Lăng Xương chính là Phụng Thiên Vương Mẫu đầu thai thành Phụng Cơ Công Chúa. Quốc Tổ biết thời giờ đã đến liền phất tay một cái tức thời lễ vật cùng những người đã lựa chọn bay lên Mây.
Nói về Công Chúa đã quyết định tự mình xuất giá. Cưỡi Thần Mã bay về Nam đến với Vua Hùng rồi tính sau. Mặt Trời sắp lặng. Trên Đền cao Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi, ngồi cách xa giám sát Công Chúa lựa chọn phò mã. Tiếng nhạc nổi lên như báo hiệu Công Chúa xuất hiện. Thế là Cánh Hoa rực rỡ từ từ bước ra. Làm cho cả cảnh quan rực rỡ theo. Sự trằm trồ không ngớt, có người cho rằng còn đẹp hơn cả Tiên Nữ Hằng Nga. Theo hầu Công Chúa là hai hầu nữ cũng xinh đẹp tuyệt trần. Điều khác lạ là hai Hầu Nữ không yểu điệu chút nào. Mà là hai Nữ Tướng, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu. Điều nầy làm tăng thêm vẻ quí phái của Công Chúa. Mười Chàng Thái Tử vừa nhìn thấy Công Chúa, thời quả tim như muốn ngừng đập.
Tiếng trống hồi thứ nhất. Mười Thái Tử đứng cách xa nhau. Để cho Công Chúa lựa chọn. Người ta thấy Công Chúa không để ý gì đến mười chàng Thái Tử kia. Mà đang chắp tay cầu nguyện.
Công Chúa vái: Hùng Vương cái gì cũng biết trước mau đến rước em về Nam. Lời thầm vái vừa xong Thì nghe trên không, tiếng nhạc quen thuộc trỗi lên. Phụng Cơ biết đó là tiếng nhạc của các Tiên Nữ. Công Chúa nhìn lên đám Mây, thì thấy Quốc Tổ Hùng Vương xuất hiện. Công Chúa mừng quá sít chút nữa thì hét lên nhưng kiềm hãm lại được.
Hai Hầu Nữ nhìn thấy người đàn ông mặc áo Long Bào uy nghi tuấn tú đứng trên mây từ từ hạ xuống, lại nhìn thấy Công Chúa mừng rơi nước mắt. Thì đoán biết người mặc áo Long Bào kia chính là Vua Hùng Quốc Vương Đại Nam Nước Văn Lang đã xuất hiện. Cuộc diện thay đổi hẳn khi Quốc Tổ Vua Hùng xuất hiện. Sánh lễ dâng lên chật cả sân, hào quang Châu Báu ngọc ngà lấp lánh. Còn nhiều hơn số Châu Báu những người đến cầu hôn. Nhìn thấy số Châu Báu Ngọc Ngà. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi lóa cả mắt.
Quốc Tổ Vua Hùng bước tới người ngồi chính giữa thưa:
Tuy con đến trễ nhưng cũng đúng lúc, đúng lễ nghi mà nhạc phụ, Quốc Vương đã đề ra. Con xin đón rước Công Chúa về Nước Văn Lang.
Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi nghe ba tiếng Nước Văn Lang thì giật cả mình. Hết bất ngờ nầy sang bất ngờ khác, chưa biết xử trí ra làm sao.
Nói về Công Chúa chỉ chờ có thế liền chạy đến nắm lấy tay Quốc Tổ Vua Hùng. Quốc Tổ đưa Công Chúa lên kiệu, kiệu Phụng bay lên Mây. Công Chúa liền huýt sáo. Con Ngựa Thần từ trong chuồng phóng ra bay lên mây theo Công Chúa. Chừng đến khi nghe mười chàng Thái Tử, hốt hoảng la lên cướp cướp, thì đám mây đã mờ dần trong ốm nắng của hoàng hôn.
Đế Lai nói:
Ý Trời, tất cả là ý Trời.
Đế Hậu nói:
Ý trời cái gì. Hai đứa nó đã yêu nhau từ lâu rồi.
Đế Lai ngơ ngác nhưng rồi cũng làm thinh. Đế Lai tự nói một mình: Nếu thế thời càng hay chớ sao.
Đế Hậu Nương Nương nói:
Còn mười Chàng Thái Tử kia thời giải quyết sao đây?
Đế Lai nói:
Còn giải quyết gì nữa. Cả mười người mà không giữ nổi Công Chúa, thua một người, để cho người ta cướp mất, còn thưa kiện gì nữa.
* * *
Hết phần 1 chương 20 mời xem tiếp phần 2 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
Xem kinh giáo mà tâm hồn trẻ hóa
Đầy ly kỳ trong cuộc sống thần tiên
Ôi cuộc sống tình duyên đầy phong phú
Đẹp làm sao ôi cái đẹp vô biên.
* * *
-
CHƯƠNG 20
PHẦN 2
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI
Từ ngày Công Chúa về Đất Đại Nam Nước Văn Lang, trở thành Vương Mẫu Quốc Hậu. Thấy Đất Văn Lang quả nhiên trù phú, thảo nào ai cũng muốn chiếm cho bằng được. Nhất là Đất Lãnh Nam, sông núi kỳ bí ngọa Hổ tàng Long. Hổ nằm Rồng ẩn, khí Thiên sông núi tỏa lên như bảo bọc cho con dân Âu Việt, Lạc Việt. Quốc Hậu Nương Nương lấy làm mừng và biết rằng Con Rồng Cháu Tiên sẽ làm chủ Địa Long nầy. Tuy là thân Quốc Hậu Chí Tôn Thiên Hạ nhưng lại coi Dân thương Dân như con ruột của mình. Nhân từ độ lượng ít ai hơn.
Quốc Hậu Nương Nương giúp Chồng mở mang bờ cõi, xây dựng Đất Nước. Dạy cho hàng nữ lưu, nâng cao tay nghề chăn Tằm dệt Cửi, sáng tạo ra nhiều mẫu mã gấm vóc lụa là, màu sắc rực rỡ. Quốc Hậu Nương Nương là phụ nữ hiện đại, giúp Chồng từ việc nhà cho đến cả việc Nước, có một không hai ở thời đại phong kiến Thần giáo, thời Chủ Nghĩa Độc Quyền Vua Chúa. Đất Nước Văn Lang là Đất Nước đổi mới văn minh, ở lãnh vực xã hội, những gì Nam giới làm, Thì phụ nữ cũng được phép làm. Đó là Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang cho phép. Đó là lĩnh vực xã hội. Còn lĩnh vực gia đình thời lại một chuyện khác. Thuộc về Đạo Luật Thiên Chức mà Đức Cha Trời đã ban. Đạo làm Chồng, làm Vợ. Đạo làm Cha, Đạo làm Con. Đạo làm Anh làm Chị. Đạo làm em.
(Xem Bộ Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa Sẽ Rõ)
Thời đại mà phụ nữ làm được tất cả thì cuộc sống gia đình, xã hội, Tổ Quốc, mới tiến bước trên con đường văn minh dân giàu nước mạnh. Tất cả mọi sự hoạt động, mọi sự phát triển tiến lên xây dựng quê hương đất nước thì phải có bàn tay của Nữ giới đóng góp công lao. Một Đất Nước giàu mạnh là một Đất Nước có nhiều tầng lớp phụ nữ tài đức, vừa đảm đang được việc nhà, vừa đảm đang việc Nước. Đảm đang nhiều trọng trách. Những phần ngành quan trọng của Đất Nước. Trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Có cả những địa vị đỉnh cao của xã hội. Nhưng phải ở lĩnh vực nhân quyền dân chủ, được Công Chúng tín nhiệm bầu xét mới hợp lệ. Theo Hiến pháp, Luật pháp cho phép của Nước Văn Lang. Cạnh tranh Bình Đẳng hợp pháp giữa Nam giới và Nữ giới. Còn tiến thân theo kiểu mưu mô thủ đoạn. Cậy thế ỷ quyền thì là mối họa tai hại cho đất nước mà thôi.
Một Dân Tộc văn minh, không chỉ có Nam giới là tất cả. Mà có cả giới Nữ cộng tác. Nam – Nữ. Nam Giới, Nữ Giới song hành, phát triển Đất Nước, xây dựng Tổ Quốc, bảo vệ Đất Nước, chống giặc ngoại xâm. Đó là tính ưu việt của Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang. Mà các nước khác ở vào thời đại ấy không bao giờ có. Không phải sự ngẫu nhiên có được sự Độc Lập kéo dài ở Niên Đại Hùng Vương 2.622 năm ở thời giữ nước. Cộng thêm 79 năm ở thời dựng Nước là 2.701 năm. Trên toàn thế giới không có Niên Đại nào ở vào thời kỳ ấy, giai đoạn ấy, kéo dài Độc Lập Niên Đại lâu đến thế. Sự Độc Lập kéo dài Niên Đại Hùng Vương đều có nền tảng cơ sở của nó. Nếu không vì có sự thất truyền nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang thì Dân Tộc Việt Nam đâu phải chịu cảnh nô lệ hơn nghìn năm.
Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp bình đẳng. Bình Đẳng Nam giới, Nữ giới. Không có sự trọng Nam khinh Nữ hay trọng Nữ khinh Nam. Một xã hội mà trọng Nam hơn trọng Nữ. Hay trọng Nữ hơn trọng Nam. Thì xã hội đó chưa phải là xã hội văn minh. Xã hội Văn Lang là xã hội Hiến pháp, Luật pháp, Công Lý mới thật sự là Vua. Một Pháp Vương Hiến pháp không thay đổi trước sau như một. Mãi mãi trường tồn theo thời gian, song song với Luật pháp và Công Lý. Con đường hôn nhân giữa Nam và Nữ ở lĩnh vực tự do, tự nguyện. Nam, Nữ có quyền được lựa chọn người mình yêu và sự chung thủy vẫn được tôn vinh ca ngợi hàng đầu, báu vật vô giá của tình yêu và Quốc Hậu là mẫu mực cho sự tình yêu chung thủy, thủy chung ấy.
* * *
Hết phần 2 chương 20 mời xem tiếp phần 3 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
CHƯƠNG 20
PHẦN 3
LỜI DI CHÚC TRƯỚC KHI TỪ BIỆT CÕI TRẦN CỦA QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non
Trăm tuổi có dư chưa an nhàn
Kia kìa Dân Chúng ôi còn khổ
Vẫn còn hộ đói khổ lầm than.
Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước bận rộn cả đời, không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân. Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương. Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về vật chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa tinh thần. Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn, lẩn sự sống của thể xác, vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thì đẹp Đạo. Tốt Đạo thì đẹp Đời. Tinh Thần vật chất song đôi tiến tới Văn Minh, xã hội Chân Thiện mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng, Văn Minh.
Kìa Non Nước thay da đổi thịt
Giàu từng ngày rừng rực ấm no
Đời nở hoa, ôi mùa xuân Tổ Quốc
Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha.
Cuộc sống xã hội Văn Lang, không những ấm no, mà còn tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do đua tài đua sắc, làm giàu đẹp cho xã hội, làm giàu đẹp cho Nước cho Non. Cho bản thân, gia đình rạng danh dòng họ.
Đàn Chim tung cánh tự do
Bay trong hạnh phúc ấm no thái bình
Xuân Non xuân Nước xuân Tình
Xuân Trời xuân Đất xuân mình xuân ta.
Nước Văn Lang ngày càng mở rộng. Dân chúng khắp nơi xin đến định cư, làm ăn sinh sống càng về sau càng đông.
Đất lành Chim đậu có sai chi
Văn Lang cuộc sống thật diệu kỳ
Thiên Đàng Cực Lạc nơi trần thế
Rực rỡ Trời Nam, rực sử thi.
Do tài năng Đức Độ. Tận tâm tận lực lãnh Đạo đất nước. Đưa Đất Nước Văn Lang càng ngày càng ấm no phồn thịnh khí thế bừng lên sức sống mãnh liệt mạnh mẽ, sáng tạo ra nhiều gấm vóc lụa là màu sắc rực rỡ. Nhất là nghề rèn đúc tinh xảo, hoa văn sống động, phải kể đến nền Văn Minh lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi có một không hai, không có một đất nước nào sánh kịp.
Quốc Hậu ở với Quốc Tổ 5 năm thời sanh con, sanh ra con đàn cháu đống. Con trai lớn Lân Lang, Hùng Quí Lân, sau nầy lên ngôi Quốc Vương thay cha trị vì Thiên Hạ. Mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp đến gần. Quốc Tổ Hùng Vương triệu tập hết thảy quần Thần Dân Tướng. Vào ngày 10 tháng 3 năm ẤT MÙI. Ngày mà Quốc Tổ từ biệt cõi trần. Trả lại xác trần về Trời. Ngày ấy cảnh vật buồn hiu. Hoa đang khoe sắc đi vào héo rụng. Chim chẳng muốn bay, thú chẳng muốn ăn. Như linh cảm Mặt Trời Trí Huệ, Chánh giác sắp lặng. Đấng đại từ đại bi. Lập Quốc, trị Quốc bằng con đường Chánh giáo. Đạo Pháp Quốc Đạo Chính Nghĩa Dân Tộc. Trên bực cao Quốc Tổ vẫn uy nghi như ngày nào. Chiếc áo Rồng lung linh sống động như muốn nghe từng lời Quốc Tổ. Quân Thần Dân chúng tuy không tiếng khóc nhưng nước mắt cứ rơi rơi mãi ước nhầm cổ áo.
Lời Quốc Tổ trầm hùng vang dội khắp Núi Sông đều nghe thấy từng lời:
Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt. Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần xuân đến 84 lần xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời. Vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa, với lý do là vì ta Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tầng Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế, không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân.
Khi ta về Trời, thì Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ. Hai Đấng tối cao Linh Thiên vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng họa, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiên, không có Đấng nào Linh Thiên hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặc hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm.
Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lãng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo. Thì Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất. Thì Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang. Nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang, ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang. Mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai.
Địa Mẫu Âu Cơ, Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiên vũ trụ, chỉ cần cảm nghĩ đến Mẹ, là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ lực khai thông. Thành tựu khoa học vật chất. Cũng thành tựu trong sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo. Đều có bàn tay nâng đỡ của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.
Ta sanh xuống chốn nhân gian, là để nói rõ nguồn gốc vũ trụ. Nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền năng tối cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con Cháu của Đức Cha Trời Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian. Để cho Nhân Loại trở về với Cội với Nguồn, đến với Đấng ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ sanh ra Nhân Loại con người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang, để sau nầy con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S. Thánh Địa Lãnh Nam Linh Thiên siêu việt nầy, là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa. Cũng là Thánh Địa Linh Thiên bảo bọc Nhân Loại con người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10.
Nay ta giao Địa Long Thánh Địa nầy cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất, sau năm nghìn năm ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai Thiên Ấn trở lại Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non, vì Nước, Hồn Trung Kiên. Hồn Tiết Liệt Nam Nữ. Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng, bè Phái. Không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc. Mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc.
Những kẻ tôn thờ ngoại xâm. Tôn thờ ác Đạo, vùi lấp truyền thống Dân Tộc. Bỏ Cội bỏ Nguồn. Dù trung hiếu cho cách mấy. Tiết Liệt cho cách mấy. Cũng chỉ là trung với bè Đảng mà thôi. Và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đọa ngập chìm trong con đường ác. Mất Thân người khó mà đầu thai trở lại làm người, sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục. Theo Luật nhân quả mà thọ lãnh quả báo.
Sau năm nghìn năm nữa. Từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hóa lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là thời đại Dân Chủ nhân quyền Đa Đảng sống theo Hiến pháp, Luật pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến pháp ngụy tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng. Nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước sẽ được Nhân Dân ủng hộ, không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc. Thì Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiên Dân Tộc, Khí Thiên sông núi ủng hộ che chở.
Ý Trời đã thế, thì xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời. Đó là ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ. Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển. Cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần. Do lượng phù sa hàng năm, do Nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh khí. Đất sanh Linh. Khí – Nước – Đất giao hóa khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vầng Thái Dương tỏa sáng khắp trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển.
Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bậc tu thiền luyện khí nhập định. Thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm ta trở lại chốn Nhân Gian. Lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi. Và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9. Chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp. Động Đất khắp nơi. Nước dân khắp chốn. Mưa to bão lớn kinh hoàng. Nhiệt độ tăng cao thiêu đốt. Nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hóa đến chỗ thông Linh hướng Thiện. Theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đọa rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính, đều đọa lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông. Thì mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hóa Linh Hồn.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt. Bách Tộc Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Nền Hiến pháp Văn Lang là thuyền lớn, cầu lớn. Bắc qua sông mê, đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha ông trở về vũ trụ.
Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang. Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng. Con Cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con Cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thì người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thì người ấy hưởng, vì giang san vũ trụ nầy là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba Con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tang tóc chết chóc cho con người, hết triệu năm nầy sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết. Nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm. Mưu mô Quỉ quyệt vô cùng, biến giả thành chân che mắt cả Thần Thánh. Huống chi chỉ là người thường tục, thì chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy. Chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh giác của Linh Hồn con người. Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh giác.
Một là: Pháp Tạng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến pháp, pháp Tạng vũ trụ.
Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân quyền Bình Đẳng. Những quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã ấn chứng di truyền cho mỗi con người, không có quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm.
Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện. Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng xã hội.
Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo Chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sáng cứu thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác nầy. Về thời mạt pháp Tà Ma ác quỷ chúng giả tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền tỏa ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau tỏa sáng thiêu rụi Tà Ma ác quỷ. Làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người.
Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng. Một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn. Còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa. Tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều yêu Tinh khác. Và chúng không bao giờ quên mối thù Con Cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lợi là tiêu diệt Nước Văn Lang. Tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu Của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt. Đồng Bào anh em tàn sát lẫn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ chúng thấy Quân Dân Văn Lang. Hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ. Ba Hồn con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S. Nên không chạy trốn về Phương Tây mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh Chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang. Quên đi nòi giống Tiên Rồng. Quên đi Nguồn Cội. Đánh mất truyền thống dân tộc, xu thế ngoại bang. Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh. Dẫn con Cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hóa Cội Nguồn mất. Thiên Ấn tan biến chẳng còn thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.
Hởi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu. Thần Thông đến đâu. Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng tối cao Chúa Tể vũ trụ. Quyền năng vô hạn sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Con Cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Thờ phụng Tổ Tiên. Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hóa Cội Nguồn mà hành trì. Thì Tà Ma ác Quỷ cũng khó mà làm gì được.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì, cũng không được bỏ Cội bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn, Nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước. Thì coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại ban, cảnh nô lệ ngoại bang, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến.
Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác thần Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vĩnh biệt Quân Dân cả Nước.
* * *
Hết phần 3 chương 20 mời xem tiếp phần 1 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
-
CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 1
THỊNH – SUY
Từ ngày Quốc Tổ về Trời. Thái Thượng Quốc Mẫu, còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quí Lân con cả Quốc Tổ lên ngôi vương được ba năm. Hùng Vương đời thứ 2. Trị Quốc không bao lâu, thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lịnh Hùng Vương. Có ý phản lại Bách Tộc Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lệnh đem chém trước Bách Tộc Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng.
Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Dựng Nước 79 năm Thời Quốc Tổ. Thời Giữ Nước 2.622 năm thời con cháu.
Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương. Đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14. Có giặc Thượng Tây Hạ. Giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang. Nhưng bị Quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn.
Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại bang thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miễn sao chiếm Đất lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm, xâm lược càng về sau càng quy mô lớn. Chúng nuôi mộng xâm lược luôn luôn chờ cơ hội. Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn.
1: Nền Văn Minh Hội Họa, Giao Tiếp.
2: Nền Văn Minh Khai Thác, Tài Nguyên.
3: Nền Văn Minh Rèn Đúc Dụng Cụ.
4: Nền Văn Minh Lúa Nước.
5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa.
Với lòng tham vọng của các thế lực ngoại bang. Ngoài Non Sông Đất Đai trù phú, khí hậu ôn hòa, thiên nhiên ưu đãi, còn năm nền văn minh trên, cộng thêm nền văn minh gốm, sứ. Vì chiến tranh thường xảy ra. Các thế lực ngoại xâm, xâm lược, càng về sau càng quy mô lớn. Làm cho nền Văn Minh Văn Lang chậm Nguồn phát triển. Nước Văn Lang càng lúc càng thu hẹp càng lúc càng lâm nguy. Khi ấy Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc phương Bắc, coi như Nước Văn Lang đã mất đi một phần ba, mà còn mất thêm nữa.
Khi ấy Tây Văn Lang. Thục phán là cháu 20 đời của Thục Lao. Bà Cố của Thục phán, là Công Chúa Hùng Vương đời thứ 15 Hùng Triều Vương, Cảnh Chiêu Lang. Thục Phán thấy Hùng Duệ Vương không có con trai, lại bỏ bê chính sự, nịnh Thần lộng hành, không sớm thì chầy cũng bị ngoại xâm nuốt chửng. Nghe Vua Hùng chuẩn bị nhường ngôi cho con rễ. Tức là Tản Viên Sơn Thánh (Nguyễn Tuấn). Thục Phán tức giận, huy động Chín Chúa khắp Tây Văn Lang. Chín Chúa Tây Văn Lang là cháu trên 20 đời của Tây Thục Vương, huy động 30 vạn quân kéo về thành Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi.
Hùng Duệ Vương có trao binh quyền cho Tản Viên Sơn Thánh chống trả lại Thục Phán. Tản Viên Sơn Thánh nghe tin Thục Phán vô tình gặp Rùa Thần. Rùa Thần dẫn Thục Phán đến hang động bí mật. Nơi Quốc Tổ Vua Hùng luyện Bảo Kiếm. May thay nơi đây còn sót lại bí quyết luyện thép của Quốc Tổ Vua Hùng và Thục Phán đã luyện được thép thành công. Thục Phán cho người rèn đúc ra kiếm, ra tên vô cùng lợi hại. Tản Viên Sơn Thánh, Nguyễn Tuấn biết chống trả cũng không lại, lại gây ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt, sò hến đánh nhau ngư ông đắc lợi. Ngoại xâm chính là ngư ông. Chờ thời cơ là hốt sạch, xóa sổ nước Văn Lang, Nguyễn Tuấn thấy rõ nguy cơ mất nước xảy ra. Khi anh em tương tàn nồi da nấu thịt. Chi bằng khuyên Vua Hùng nhường ngôi Quốc Vương cho Thục Phán.
* * *
Hết phần 1 chương 21 mời xem tiếp phần 2 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 2
THỜI MẠT PHÁP – MẠT VẬN
Thục Phán lên ngôi Quốc Vương. Niên Đại Hùng Vương kết thúc. Chuyển sang niên hiệu An Dương Vương. Thời Đại Văn Lang kết thúc. Chuyển sang thời đại Âu Lạc. Cũng chính là lúc con cháu Tiên Rồng rơi vào thời mạt pháp mạt vận. Mặt Trời Chính Nghĩa không còn, màn đêm bao phủ Con Cháu Tiên Rồng.
AN DƯƠNG VƯƠNG trị vì Thiên Hạ 79 năm. Thì bị TRIỆU ĐÀ từ lâu chiếm lĩnh Địa phận Nước Xích Quỷ. Tiến quân tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG. Thành Cổ Loa rơi vào tay giặc.
Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, lúc ấy Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc từ lâu. Trở thành mảnh đất chiến tranh, tranh giành của nhiều thế lực. Như Thục – Tần – Ngô – Sở – Triệu – Hán – Ngụy – Tấn. Đất Bắc nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Chiến tranh, tranh giành thuộc địa càng lúc càng dữ dội.
Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương lập nước ÂU LẠC. Bắc Văn Lang, Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay quân giặc Tấn. Quân giặc Sở cắt đôi Giao Chỉ thành thế Đông Tây, Cửu Chân, Nam Hải, Đông Hải, Hợp Phố. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Đông, do quân giặc Sở đô hộ chiếm đóng. Uất Lâm – Thương Ngô – Nhật Tây – Nhật Nam. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Tây. Do quân giặc Tấn đô hộ chiếm giữ. Dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Bách Tộc Văn Lang Âu Việt – Lạc Việt – Mân Việt – Dương Việt – Điền Việt – Hải Việt – Sơn Việt – Trung Việt – Hoa Việt – Đông Việt – Tây Việt, v.v... gọi chung là Bách Việt Văn Lang, ở vào giai đoạn Hạ Hùng Vương từ đời Hùng Vương thứ 11 đến thứ 18.
Dưới ách thống trị Quân Tấn, Quân Sở, Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ. Chúng ra sức vơ vét của cải phục vụ cho chiến tranh. Đất nước Xích Quỷ Bắc phần Văn Lang, vô cùng trù phú là miếng mồi béo bở tranh giành của nhiều thế lực. Vì thế giặc Tấn, bị quân Triệu, quân Hàn, quân Ngụy, kéo đến tấn công. Quân Tấn bị tiêu diệt. Giặc Hàn, giặc Triệu, giặc Ngụy chia nhau chiếm giữ. Bách Việt Văn Lang lại rơi vào cảnh khốn khổ khác. Hổ chết thì Sói vào, Ma tiêu thì Quỉ đến. Chúng không những vơ vét về của cải vật chất mà còn vơ vét con người phục vụ cho chiến tranh, còn nỗi khổ nào hơn nữa.
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ giành lấy giang san của kẻ khác. Nhất là miếng mồi béo bở như nước Xích Quỷ, liền đem quân tấn công, Quân Ngụy, Quân Triệu, Quân Hàn.
Đất Bắc Nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Nhà Tần lên thay thế vào năm 257 trước công nguyên. Nhà Tần gồm thâu Thiên Hạ, tranh giành đất đai. Quân Hàn – Quân Ngụy đầu hàng. Quân Triệu vì ỷ có 40 vạn quân nên không chịu đầu hàng. Thế là cuộc chiến xảy ra trên đất Tây Giao Chỉ vô cùng khốc liệt. Gia Triệu tử nạn 20 vạn quân chôn vùi tại trận. Con của Gia Triệu là Gia Lại. Dẫn 20 vạn quân còn lại, chạy trốn sâu vào Đất Văn Lang, xưng là Đại Vương. Quân Tần tiếp tục truy sát. Gia Lại Đại Vương dẫn 20 vạn quân vượt qua sông Tây Giang. Quân Tần không truy đuổi nữa về sau Gia Lại xưng hiệu là Triệu Việt Vương.
Quân Triệu giặc Triệu vượt qua sông Tây giang chiếm lĩnh nhiều Châu nhiều Quận nhiều Huyện của trung phần đất Văn Lang như: Hồng Châu, Hồng Thượng Châu, Đông Châu, Thái Châu, Bộc Châu, Cưu Châu, Tiên Châu, Lô Châu, Du Châu, Thạch Châu, Môn Châu, Điền Châu. Tình hình Bách Việt Văn Lang lúc bây giờ rối loạn, rối ren liên tiếp xảy ra sự lộn rộn, không có trật tự nào cả. Bắc Văn Lang thì đã rơi vào tay giặc. Còn Trung Văn Lang tình hình như đã nói trên trộm cướp khắp nơi. Tình hình vô cùng thuận lợi cho giặc Triệu chiếm lĩnh đất đai hàng phục dân chúng một cách dễ dàng. Không bao lâu thế lực của giặc Triệu lên tới 40 vạn. Tiếp tục chiếm lĩnh các Châu, Quận, Huyện về hướng đông trung Văn Lang như: Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Thượng Lô Châu, Lô Lô Châu.
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ chia Thiên Hạ ra làm 36 Quận. Quận lớn hơn Huyện. Quận ở Tần Bằng Châu Văn Lang. Đời Tần thịnh về thuyết Ngũ Hành. Nên chia Thiên Hạ cũng theo năm phương vị Ngũ Hành. Đại Nam – Đại Bắc – Đại Đông – Đại Tây. Nhưng chỉ có Đại Nam là quan trọng hơn cả. Chiếm được Đại Nam là coi như chiếm được Thiên Hạ. Nên Tần Thủy Hoàng quét sạch Quân Hàn – Quân Triệu – Quân Ngụy – Quân Sở. Chiếm lĩnh Đại Nam trước, Đại Nam chính là Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Trước sự cai trị độc ác hà khắc ác nghiệt của Chế Độ Chính sách nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Xích Quỷ, bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang, làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng mạnh.
Lúc nầy nền Quốc Đạo truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn, phai mờ từ lâu. Bách Việt rơi vào cảnh tối tăm. Đất Bắc sáng sủa hơn vì có thuyết Lão giáo. Khổng giáo. Ngoại xâm, xâm lược Nước Văn Lang không những chỉ có Quân Sự, Chính trị mà còn có cả Văn Hóa. Xâm lược Văn Hóa còn độc hại hơn xâm lược Quân Sự, Chính trị. Bách Việt Trung phần, Bắc phần Văn Lang đã bị Văn Hóa ngoại xâm thống trị ngự trị ăn sâu vào tâm hồn. Đồng hóa Dân Tộc Văn Lang thành Dân Tộc Đất Bắc.
Cho đến năm 184 trước công nguyên. Triệu Đại Vương đem quân đánh An Dương Vương. Nhưng đánh không lại tiêu 20 vạn quân và mấy lần liên tiếp thất bại. Triệu Đại Vương tức là Triệu Đà khiếp vía. Biết không thể nào thắng nổi An Dương Vương. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế sách âm mưu lớn. Đà quỉ quyệt xin giảng hòa với An Dương Vương. Rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận. Liên hoàn cung và vũ khí luyện thép bí mật của ÂU LẠC. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, độ trúng chính xác rất cao, làm khiếp sợ quân xâm lược. Với mưu chước quỉ quyệt cầu hôn giảng hòa giả tạo nầy. Triệu Đà đã đạt được mục đích. Trọng Thủy học được bí quyết luyện thép. Nhờ sự giúp đở của Mỵ Châu. Triệu Đà liền chế tạo ra tên thép. Kiếm thép. Áo giáp thép, liền tiến quân đánh thành Cổ Loa. AN DƯƠNG VƯƠNG ỷ y bất ngờ bị Triệu Đà tiêu diệt.
Thế là Nước Âu Lạc không còn vào năm 179 trước công nguyên. Tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG xong Triệu Đại Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Con Cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh Đô hộ ngoại bang. Dưới sự cai trị của Quân Triệu Con Cháu Tiên Rồng không tùng phục. Mà còn nổi lên chống trả khắp nơi. Triệu Việt Vương tên xâm lược, ra sức dẹp loạn. Nhưng dẹp chỗ nầy là chỗ khác lại mọc lên. Y lấy làm lạ đâu cũng là Nước Văn Lang. Nhưng Dân Nam Văn Lang vô cùng khác lạ. Không giống Trung Văn Lang và Bắc Văn Lang, y ra sức dụ dỗ cách nào Dân cũng không nghe, y thuyết giảng Khổng, Lão. Dân cũng không màng và y đã nghi ngờ Đất Đai Nam Văn Lang có vấn đề.
Nói về Triệu Đại Vương. Triệu Đà có đủ sức mạnh đánh chiếm Nước Âu Lạc. Có bốn nguyên do thuận lợi tạo lên thắng lợi đó.
1 - Là do sự cai trị Độc ác của chế độ nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng thêm Mạnh. Nhờ vào chính sách, lừa bịp giỏi.
2 - Là năm 209 trước công nguyên. Công Tử Hồ Hợi. Lên kế vị Tần Thủy Hoàng. Nhị thế Hoàng Đế. Thì Triệu Cao lên chức như diều gặp gió. Từ lang trung lệnh không bao lâu lên nắm quyền Thừa Tướng. Quyền lực thế lực rất mạnh, khôi phục lại thế lực Nước Triệu ở bên kia Hoàng Hà. Thế là Triệu Đại Vương Triệu Đà. Thoát khỏi áp lực truy sát Quân Tần. Lại được Nước Triệu, bên kia sông Hoàng Hà hậu thuẫn ủng hộ giúp sức. Triệu Đại Vương trên đà hùng mạnh, tiến quân đánh An Dương Vương nhưng Triệu Đà vẫn đánh không lại, vì AN DƯƠNG VƯƠNG có liên hoàn cung. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, nón mũ giáp, độ trúng chính xác rất cao. Mấy lần thất bại làm cho Triệu Đà khiếp sợ.
3 - Triệu Đà lập ra một âm mưu lớn. Triệu Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với AN DƯƠNG VƯƠNG. Rồi sai con Trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung và cách luyện thép bí mật. Chế tạo lên thép, Kiếm thép, Đao thép, mũi lao thép của ÂU LẠC. Với mưu chước quỉ quyệt nầy. Triệu Đà đã đạt được 2 mục đích.
– Chia rẽ nội bộ làm cho mâu thuẫn với nhau, mất đoàn kết, mất sức mạnh thống nhất.
– Khám phá ra bí mật cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung, cách luyện thép, cách chế tạo ra tên thép, Kiếm thép, Đao thép, Lao thép, chúng còn chế tạo ra cả áo giáp thép.
4 - Chúng thấy thời cơ đã chín mùi, liền tiến quân đánh chiếm thành Cổ Loa, tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG vào năm 179 trước công nguyên.
Diệt xong An Dương Vương, y tưởng rằng hàng phục Dân Âu Lạc một cách dễ dàng, nào hay đâu y không hàng phục được. Mà Dân Âu Lạc càng ngày càng nổi lên chống trả y càng dữ dội, y liền cho người về Nước Triệu, thỉnh cầu cao kiến. Lúc ấy Nước Triệu Trương Nhĩ đã lên làm thừa tướng. Trương Nhĩ có quen với một người Nước Tần là Tấn Hầu Gia chán ngán cuộc thế ở ẩn. Rất giỏi về Thiên Văn Địa Lý, dịch số, toán số. Nhưng vì nể Trương Nhĩ là bậc Nhân hiền. Nên vào Nam giúp cho Triệu Việt Vương tức là Triệu Đà, xem qua địa cuộc Nam Văn lang.
Tấn Hầu Gia vừa đến đất ÂU LẠC Nam Văn Lang, thời cảm thấy bất an ớn lạnh, Triệu Việt Vương dẫn Tấn Công Hầu xem qua địa cuộc Nam Văn Lang, Công Hầu thấy Đất Đai Núi sông kỳ bí khí thiên sông núi tỏa lên kỳ lạ. Địa cuộc Hổ phục, Rồng Chầu, Hổ ngồi Rồng ẩn thời thốt lên quả là Địa Linh Đất Thánh. Không phải Dân Nam thì xưng vương ở đất nầy nhất định sanh đại họa. Công Hầu nói Đất Nam kỳ bí nầy chỉ có người Nam cai trị người Nam. Việt Vương không nên đóng đô ở đây. Đóng đô trên đất Giao Chỉ để xưng Vương. Còn nơi đây đặc sứ tài giỏi để cai trị, bóc lột vơ vét không cho dân chúng có đủ sức lực để chống trả. Triệu Việt Vương làm theo, phong cho Triệu Lữ Gia làm thừa tướng. Biến Nước ÂU LẠC thành Nam Quận. Triệu Lữ Gia là con cáo già thâm độc. Dùng kế sách Người Nam Việt cai trị Người Nam Việt. Làm cho cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm.
Cho đến năm 111 trước công nguyên. Nhà Hán tiêu diệt Nhà Triệu. Cướp Nước Nam Việt lần nữa. Thừa Tướng Triệu Lữ gia bỏ Âu Lạc chạy sang phiên Ngung cấu kết với các Bộ Tộc thổ hào Văn Lang chống lại nhà Hán và cuộc giao tranh giữa nhà Hán với Thổ Hào Văn Lang tại Long động Hùng Sơn. Triệu Lữ Gia tử nạn. ÂU LẠC Nam Văn Lang lại rơi vào tình cảnh bi đát hết sức đau khổ. Con Cháu Tiên Rồng thật đáng thương. Nhìn cảnh vơ vét bóc lột dã man của Quân Hàn. Nhìn cảnh Trâu cày Ngựa cưỡi tù đày tra tấn, đói rét, bệnh tật, sống chết nằm trong tay giặc. Thi sách nhìn quân thù hai con mắt đổ lửa.
Từ thuở dựng Non thuở Ông Cha
Văn Lang rực rỡ, cảnh Sơn Hà
Con Cháu Tiên Rồng uy linh khắp
Ngoại xâm khiếp vía chẳng dám qua.
Nhìn cảnh Con Cháu Tiên Rồng bị quân Hán cai trị vô cùng tàn bạo. Nhìn Con Cháu Tiên Rồng thân Trâu cày Ngựa cưỡi. Thi Sách xót lòng xót dạ.
Nhìn cảnh kéo cày rơi nước mắt
Đòn roi vun vút tét thịt da
Tô Định hỡi thằng hung bạo ác
Sách đây sùng sục máu Ông Cha.
Thi Sách là Cháu Quan hầu tướng về quê ở ẩn. Không theo phò An Dương Vương. Sách nhìn cảnh tàn ác của quân xâm lược nung nấu ý chí. Ngày đêm góp nhặt viết sử Ông Cha, kêu gọi Con Cháu Tiên Rồng khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.
Nước Non, Non Nước cảnh đông về
Bão giặc lan tràn khắp xóm quê
Gái trai già trẻ đời nô lệ
Giặc vơ giặc vét thảm não nề.
Giặc Hán không những vơ vét sức người của cải, tài nguyên đất nước mà còn ra sức ếm yểm hầu tiêu diệt Linh Địa khắp nơi.
Gươm của chúng đã đâm vào huyệt mẹ
Thời còn chi người Mẹ Nước Nước Non
Hỡi Dân Nam, người Dân Đại Việt
Hãy vùng lên quét sạch ngoại bang.
Thi Sách ngày đêm góp nhặt những gì còn sót lại. Truyền thống quí báu của Ông Cha. Để cho Con Cháu Tiên Rồng có hướng đi theo bước Cha Ông. Tô Định được mật báo liền bày kế giết chết Thi Sách. Đốt sạch những gì Thi Sách để lại.
Mùa xuân năm 40 sau công nguyên. Chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa, trả thù chồng, thù Nước. Thái Thú Tô Định bị hai bà Trưng đánh tơi bời.
Nghe tiếng sấm đất Trời rung chuyển
Tiếng Voi rền dậy núi dậy non
Tô Định hoảng vía hồn kinh
Trống – Chiêng Đao Kiếm rung rinh Đất Trời
Nhìn quân Hán ngã nhào tan xác
Tiếng hò reo cùng khắp bao vây
Tô Định cạo tóc cạo râu
Tìm đường trốn chạy xiết bao hãi hùng
Cờ Đại Nghĩa phực phừng phất phới
Giống Rồng Tiên cưỡi gió tung bay
Tô Định rời rã chân tay
Kể gì vinh nhục miễn sao thoát cùng
Đất Trời Nam bừng bừng tỏa sáng
Phá xích xiềng đời sống tự do
Con đường no ấm, ấm no
Chủ Quyền Độc Lập giữ cho vững bền
Gương bà Trưng anh hùng liệt Nữ
Trang sử vàng, sáng mãi muôn năm
Hỡi muôn Dân hỡi Cháu Con
Chủ Quyền Độc Lập vàng son nước nhà.
* * *
Hết phần 2 chương 21 mời xem tiếp phần 3 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
-
CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 3
NIÊN ĐẠI HÙNG VƯƠNG
THỜI THƯỢNG HÙNG VƯƠNG
- ĐỜI THỨ NHẤT. HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ
Sinh ngày 20 tháng 02 năm Giáp Thìn tức vào năm 2989 trước công nguyên. Theo niên lịch Kinh Nam.
Khi còn là Thái Tử.
16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý cứu nhân độ thế.
22 tuổi Quốc Tổ chuyển đại pháp luân khai hội Long Vân tại vườn Cấm Nước Xích Quỷ vào ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu.
25 tuổi Quốc Tổ dẫn quân Âu Lạc tiến về đất Lãnh Nam vào năm Mậu Thìn. Khai dựng lên nước Văn Lang, cũng như Bách Việt Văn Lang.
30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương vào ngày 2 tháng 9 năm Quí Dậu. Cũng như công bố nền Quốc Đạo văn Hóa Tiên Rồng ra đời.
Năm 41 tuổi Quốc Mẫu Phụng Cơ sanh Hùng Quí Lân.
109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho con cả là Hùng Quí Lân 2880 năm Nhâm Thìn trước công nguyên.
79 năm Quốc Tổ ở ngôi dựng nước.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Giáo Tổ Quốc Đạo.
112 tuổi Quốc Tổ về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi
Năm 2959 trước công nguyên. Nhà Nước Văn Lang chính thức ra đời.
- ĐỜI THỨ NHÌ. LÂN LANG
HÙNG QUÍ LÂN: Lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ, thay Cha là. Hùng Lang Quốc Tổ đời thứ 2.
Từ năm 2.880 đến 2.796 trước công nguyên.
68 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
84 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 162 tuổi.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. 152 tuổi nhường ngôi lập cháu có Đức có Tài lên thay thế đời thứ 3.
- ĐỜI THỨ BA. THÁI LANG
HÙNG THÁI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội là Hùng Quí Lân. HÙNG VƯƠNG đời thứ 3.
Từ năm 2796 đến 2726 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
20 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 153 tuổi.
- ĐỜI THỨ TƯ. THUẬN LANG
HÙNG THUẬN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông nội, Hùng Thái Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 4.
Từ năm 2.726 đến 2.644 trước công nguyên
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
82 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 154 tuổi.
- ĐỜI THỨ NĂM. MẬT LANG
HÙNG MẬT LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội Hùng Thuận Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 5.
Từ năm 2644 đến 2572 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 146 tuổi.
- ĐỜI THỨ SÁU. CAO LANG
HÙNG CAO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Mật Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 6.
Từ năm 2572 đến 2498 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.
- ĐỜI THỨ BẢY. QUYỀN LANG
HÙNG QUYỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Cao Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 7.
Từ năm 2498 đến 2417 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
81 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 151 tuổi.
- ĐỜI THỨ TÁM. LỘC LANG
HÙNG LỘC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quyền Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 8.
Từ năm 2417 đến 2339 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
78 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 143 tuổi.
- ĐỜI THỨ CHÍN. THỊNH LANG
HÙNG THỊNH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Lộc Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 9.
Từ năm 2339 đến 2265 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo.Thọ 141 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI. THANH LANG
HÙNG THANH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thịnh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 10.
Từ năm 2265 đến 2188 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
77 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. TÂM LANG
HÙNG TÂM LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thanh Lang.
Từ năm 2188 đến 2113 trước công nguyên.
63 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
75 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 145 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. QUẾ LANG
HÙNG QUẾ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tâm Lang.
Từ năm 2113 đến 2043 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 137 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BA. ÁC LANG
HÙNG ÁC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quế Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 13.
Từ năm 2043 đến 2001 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 106 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. LINH LANG (Con Út)
HÙNG LINH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay Cha là Hùng Ác Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 14.
Từ năm 2001 đến 1927 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 138 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CHÂU LANG
HÙNG CHÂU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Linh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 15.
Từ năm 1927 đến 1857 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. XÍCH LANG
HÙNG XÍCH LANG: lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Châu Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 16.
Từ năm 1857 đến 1778 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
79 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. QUÂN LANG
HÙNG QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Xích Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 17.
Từ năm 1778 đến 1705 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
73 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. THỤC LANG
HÙNG THỤC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 18.
Từ năm 1705 đến 1634 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
71 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI CHÍN. YÊN LANG
HÙNG YÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thục Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 19.
Từ năm 1634 đến 1562 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
- ĐỜI THỨ HAI MƯƠI. VĨ LANG
HÙNG VĨ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Yên Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 20.
Từ năm 1562 đến 1486 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
76 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
- ĐỜI THỨ HAI MỐT. TÂN LANG
HÙNG TÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Vĩ Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 21.
Từ năm 1486 đến 1417 trước công nguyên.
29 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
69 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.
- ĐỜI THỨ HAI HAI. CHIẾN LANG
HÙNG CHIẾN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 22.
Từ năm 1417 đến 1342 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
75 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
- ĐỜI THỨ HAI BA. DỊCH LANG
HÙNG DỊCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Chiến Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 23.
Từ năm 1342 đến 1276 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
66 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 128 tuổi.
Niên Đại Thượng Hùng Vương đến đây là kết thúc. Chuyển sang Niên Đại Hạ Hùng Vương. Hùng Dịch Lang không có con trai, nên không có cháu trai. Để lập Quốc Vương kế vị. Hùng Cừ Lang là em của Hùng Dịch Lang. Cháu thứ 3 của Hùng Cừ là Vân Lang. Cha của Vân Lang là Chấp Lang. Hùng Dịch Lang, Hùng Vương đời thứ 23 lập Vân Lang. Cháu của em mình là Hùng Cừ lên kế vị ngôi Quốc Vương. Đời thứ 24, cũng là đời thứ nhất Hạ Hùng Vương.
THỜI HẠ HÙNG VƯƠNG
- ĐỜI THỨ NHẤT. VÂN LANG
HÙNG VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Bác Nội. Hùng Dịch Lang. HÙNG QUỐC VƯƠNG thứ 1.
Từ năm 1276 đến 1211 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
65 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 126 tuổi.
- ĐỜI THỨ HAI. HUÂN LANG
HUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Vân Lang, pháp hiệu HÙNG YÊN VƯƠNG đời thứ 2.
Từ năm 1211 đến 1141 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
- ĐỜI THỨ BA. ĐIỂN LANG
ĐIỂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Yên Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tiên Vương. HÙNG TIÊN VƯƠNG đời thứ 3.
Từ năm 1141 đến 1077 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
64 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 125 tuổi.
- ĐỜI THỨ BỐN. BẢO LANG
BẢO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Tiên Vương. Lấy pháp hiệu HÙNG DIỆP VƯƠNG đời thứ 4.
Từ năm 1077 đến 1020 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
57 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.
- ĐỜI THỨ NĂM. VIÊN LANG
VIÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Diệp Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Hy Vương. HÙNG HY VƯƠNG đời thứ 5.
Từ năm 1020 đến 961 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
59 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 120 tuổi.
- ĐỜI THỨ SÁU. PHÁP HẢI LANG
PHÁP HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Hy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Huy Vương. HÙNG HUY VƯƠNG đời thứ 6.
Từ năm 961 đến 893 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
68 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.
- ĐỜI THỨ BẢY. LANG LIÊU LANG
LANG LIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Huy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chiêu Vương. HÙNG CHIÊU VƯƠNG đời thứ 7.
Từ năm 893 đến 832 trước công nguyên.
48 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 114 tuổi.
- ĐỜI THỨ TÁM. THỪA VÂN LANG
THỪA VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là, Hùng Chiêu Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Vi Vương. HÙNG VI VƯƠNG đời thứ 8.
Từ năm 832 đến 771 trước công nguyên.
51 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 116 tuổi.
- ĐỜI THỨ CHÍN. QUÂN LANG
QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vi Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Đinh Vương. HÙNG ĐINH VƯƠNG đời thứ 9.
Từ năm 771 đến 726 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
1 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 105 tuổi.
Nền Quốc Đạo duy trì đến đây là chấm dứt. Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại chút ít cũng biến mất từ đây. Đời sống xã hội Văn Lang từ đây chạy theo trào lưu, phong kiến Chủ Nghĩa Độc Quyền. Không khác gì Triều Đại Đất Bắc. Kéo dài 425 năm từ đời Hùng Vương 11 đến đời Hùng Vương 18.
- ĐỜI THỨ MƯỜI. HÙNG HẢI LANG
HÙNG HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Định Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Úy Vương. HÙNG ÚY VƯƠNG đời thứ 10.
Từ năm 726 đến 683 trước công nguyên.
67 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
43 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 113 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. HƯNG ĐỨC LANG
HƯNG ĐỨC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Úy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chinh Vương. HÙNG CHINH VƯƠNG đời thứ 11.
Từ năm 683 đến 641 trước công nguyên.
65 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. ĐỨC HIỀN LANG
ĐỨC HIỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chinh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Vũ Vương. HÙNG VŨ VƯƠNG đời thứ 12.
Từ năm 641 đến 569 trước công nguyên.
45 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 119 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BA. TUÂN LANG
TUÂN LANG: Là con thứ 7 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vũ Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Việt Vương. HÙNG VIỆT VƯƠNG đời thứ 13.
Từ năm 569 đến 506 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
63 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 118 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. CHÂN NHÂN LANG
CHÂN NHÂN LANG: Là con thứ 6 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Việt Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Ánh Vương. HÙNG ÁNH VƯƠNG đời thứ 14.
Từ năm 506 đến 456 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
50 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CẢNH CHIÊU LANG
CẢNH CHIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Ánh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Triều Vương. HÙNG TRIỀU VƯƠNG đời thứ 15.
Từ năm 456 đến 396 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
60 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 115 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. ĐỨC QUÂN LANG
ĐỨC QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Triều Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tạo Vương. HÙNG TẠO VƯƠNG đời thứ 16.
Từ năm 396 đến 351 trước công nguyên.
57 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 104 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. BẢO QUANG LANG
BẢO QUANG LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Tạo Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Nghị Vương. HÙNG NGHỊ VƯƠNG đời thứ 17.
Từ năm 351 đến 306 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 102 tuổi.
- ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. HUỆ LANG
HUỆ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Nghị Vương. Lấy pháp hiệu là Hùng Duệ Vương. HÙNG DUỆ VƯƠNG đời thứ 18.
Từ năm 306 đến 258 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
48 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 102 tuổi.
Sau cơn hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Văn Lang. Thiêu rụi những gì còn sót lại kể cả gia phả Hùng Vương. Ý Trời. Các Vương Quan, tướng lĩnh đời cuối Niên Đại Hùng Vương, đau xót cho Niên Đại Hùng Vương, kéo dài hàng nghìn năm ai được nghe kể gì thì thờ nấy. Nên hết sức lộn xộn. Thôi thà thờ lộn xộn, câu chuyện lịch sử lộn xộn, còn hơn là đánh mất hẳn truyền thống dựng nước, giữ nước của Ông Cha.
KINH LONG HOA MẬT TẠNG ĐẾN ĐÂY LÀ HẾT
Nguyện đem Công Đức nầy hồi hướng về cho tất cả Nhân Loại Anh Em pháp giới Rồng Tiên, thoát khỏi Đao binh, đói nghèo, lạc hậu. Sớm lên bờ giải thoát. Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hòa nhập vào cảnh giới Đại Đồng vũ trụ. AN LẠC YÊN VUI.
Có công dù chỉ mảy lông
Cha Trời phù hộ công danh rạng ngời
Huống chi truyền bá cho đời
Siêu thăng thượng giới Vua Trời khó chi.
* * *
-
PHẦN THƯA HỎI
Hỏi: Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam. Đoàn kết, Dân giàu nước mạnh, Dân chủ công bằng văn minh thì làm thế nào?
Đáp: Còn làm thế nào nữa. Tất cả con cháu Việt Nam. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nước ngoài nước, phải trở về với Cội với Nguồn. Tôn Thờ Cội Nguồn, gìn giữ Cội Nguồn, ca ngợi Cội Nguồn, phát huy truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Cha Ông.
Cây còn gốc nở cành xanh ngọn
Người có nguồn người rạng danh thơm
Giữ gìn truyền thống Cha ông
Xuân non, xuân nước, xuân bông, xuân hòa
Cây mất Gốc lụn tàn héo úa
Người bỏ Nguồn lạc lối bơ vơ
Rơi vào khốn khổ lệ nô
Ngoại xâm cướp Nước vét vơ đói nghèo.
Hỏi: Bước đầu xây dựng Đất Nước thì ta phải làm sao?
Đáp: Còn làm sao nữa. Xây dựng Đất Nước, công bằng, văn minh giàu mạnh, đoàn kết, không chiến tranh, Độc Lập lâu dài. Cũng không khác gì khởi sự xây dựng tòa lâu đài nguy nga, đồ sộ lộng lẫy. Bước đầu tiên là:
1 – Là: Chọn mặt bằng
2 – Là: san bằng mặt bằng
3 – Là: Xây dựng nền móng kiên cố
4 – Là: Chất liệu vật liệu xây dựng
5 – Là: Cấu trúc cấu kết nền móng
Đó là phần cơ bản bước đầu, sau đó mới xây phần kế tiếp. Trụ Cột tòa lâu đài, rồi xây lên thượng tầng Kiến Trúc. Chúng ta là thế hệ giữ Nước.
- Mặt bằng có sẵn. Chính là Nước Việt Nam. Nếu nói mặt bằng rộng hơn là Nước Văn Lang.
- Vũ khí mà Ông Cha ta sang bằng giai cấp. Chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức, Công Lý bình đẳng, công bằng Văn Lang.
- Nền móng Kiên cố, Dân Tộc. Chính là truyền thống dựng Nước, giữ Nước, truyền thống Chính nghĩa, truyền thống bảo vệ chủ quyền Độc Lập.
- Chính là Văn Hóa Cội Nguồn, văn học tối cao, Đạo pháp tối cao, chất Vàng chất Ngọc khai sáng trí tuệ. Cấu trúc ung đúc tinh thần vĩ Đại. Kết dính các Dân Tộc lại với nhau.
- Phát huy sức mạnh toàn Dân Tộc. Một sức mạnh Thần Thánh. Chính là Nền Quốc Đạo. Một sức mạnh cả tinh thần lẫn vật chất, sức mạnh của Bách chiến, Bách thắng.
Năm phần xây dựng nền móng. Đoàn Kết, Dân giàu, Nước mạnh, Công Bằng Dân Chủ, văn minh. Ông Cha ta đã xây dựng hàng nghìn nghìn năm rồi. Chúng ta là thế hệ Con Cháu gìn giữ tu tạo phát huy mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta cũng như toàn Dân Tộc lựa chọn ra người có Tài có Đức. Những trụ Cột của tòa lâu Đài xã hội, tòa lâu Đài Đất Nước. Những trụ Cột đó phải là những hạt giống tốt, vì Dân, vì Nước, vì Cội Nguồn. Vì truyền thống anh linh Ông Cha. Và đi vào thời cơ thuận lợi. Để cho Con Cháu Tiên Rồng làm lên tòa lâu Đài xã hội. Nhà Nước Việt Nam hào hùng nguy nga tráng lệ rạng rỡ khắp năm châu.
Gươm Thiên trấn Quốc đã trao tay
Vận mệnh Nước Non đã an bày
Mật Đạo hào quang Nền truyền thống
Việt Nam con cháu Phụng Rồng bay
Văn Hóa Cội Nguồn Nền Văn Hiến
Vàng son thống nhất rực trời Mây
Dân giàu Nước mạnh đời hạnh phúc
Đói tan nghèo biến, giặc tiêu bay.
Hỏi: Làm thế nào chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, ngấm ngầm chống đối, phản động, phá hoại truyền thống Dân Tộc ta. Nhất là các thế lực ngoại xâm?
Đáp: Hãy thắp sáng. Ngọn lửa Thiên yêu Nước. Ngọn lửa Văn Hóa Cội Nguồn. Ngọn lửa Chính Nghĩa. Ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. Ngọn lửa hào hùng Dân Tộc. Toàn Dân Tộc Việt Nam, mỗi Con Cháu Tiên Rồng, hãy tự mình thắp sáng ngọn Đèn trí huệ giác ngộ, hãy nhóm lên ngọn lửa yêu Nước đầy lòng Trung Hiếu vì nước vì non vì dân tộc Việt Nam. Khi chúng ta Con Cháu Tiên Rồng đã thắp sáng lên ngọn lửa Thiên. Ngọn lửa yêu Nước, yêu Văn Hóa Cội Nguồn, yêu truyền thống Ông Cha. Thì Hồn Thiên Dân Tộc sẽ nổi lên ủng hộ theo phò. Hồn Thiên Cha Ông theo giúp sức. Phật, Thánh, Tiên che chở. Đức Cha Trời, Đức Mẹ Trời dìu dắt phù hộ, tiêu diệt kẻ chống phá Cội Nguồn.
Đã có Cha Ông giúp ngại gì
Hồn Thiên Dân Tộc giúp lo chi
Cha Trời phù hộ huyền cơ chuyển
Chúng Dân trung hiếu, dậy hùng uy
Trời Nam rung chuyển rền sấm bão
Nước dâng cuồn cuộn giặc còn chi
Chính Nghĩa bừng lên đời tỏa sáng
Rồng Tiên phất phới ác tiêu đi.
Hỏi: Làm thế nào dẫn Đồng Bào Đại Việt trở về với Cội với Nguồn. Yêu truyền thống, yêu quê hương Tổ Quốc?
Đáp: Còn làm gì nữa ngoài xây dựng lại truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha, phát huy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ công bằng Văn Minh xã hội.
Có đường là có người đi
Có sáng là có màu xanh cuộc đời
Đường truyền thống rạng ngời cùng khắp
Đường mùa xuân đầy ắp tự do
Con đường Độc Lập ấm no
Con đường hạnh phúc an vui Thái Bình.
Văn Hóa Cội Nguồn là ánh sáng tự do, ánh sáng Công Bằng, Bình Đẳng, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ văn minh, ánh sáng Công Bằng xã hội, đem lại màu xanh cho cuộc sống. Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền thống dựng Nước, giữ Nước, mở màng lịch sử Ông Cha, đã thất truyền hơn hai nghìn năm. Nay đã trở về với Dân Tộc Con Cháu Việt Nam. Gần hai nghìn năm trước cảnh đau thương, tan nhà nát cửa, chết chóc tù đày, đói nghèo lạc hậu, bởi ngoại xâm đô hộ. Bóng đêm bao phủ non sông Đại Việt. Mất đi mùa xuân màu xanh của sự sống. Đã có ánh sáng là có màu xanh tinh thần vươn lên của người Dân Đại Việt. Có đường là có người đi. Nhất là con đường Đại Lộ. Con đường truyền thống Chính Nghĩa. Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Như thời dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha ta.
Tiếng gà vang dội khắp non sông
Ló dạng bình minh rực ánh rực hồng
Nước non trở lại mùa xuân mới
Đường rộng thênh thang Cội Đại Đồng
Văn Lang Quốc giáo Nền Văn Hiến
Thấm đượm hồn Dân trí linh thông
Truyền thống Cha Ông đầy Quyền biến
Quỷ yêu khiếp vía Cội Tiên Rồng.
Hỏi: Việt Nam đã trải qua gần hai nghìn năm đô hộ của ngoại bang. Chúng đã truyền bá nhiều thứ Văn Hóa độc hại, có hại cho Dân Tộc, cho Đất Nước. Làm thế nào đẩy lùi được chúng?
Đáp: Mặt Trời đã mọc, thì Trăng – Sao mờ dần, rồi biến mất. Tự nó biến mất, vì ánh sáng của nó đã bị ánh sáng Mặt Trời che khuất, bao phủ. Bất Chiến Tự Nhiên Thành.
Đom Đóm khó mong sáng trước đèn
Mặt Trời xuất hiện, thấy sao chăng
Ánh sáng lai căn liền biến mất
Trời Nam rực rỡ ánh xuân, hằng
Bất Chiến Nhiên Thành cao chót vót
Việt Nam rực rỡ cánh Mai Sen
Văn Hóa Cội Nguồn Nền truyền thống
Ác tiêu Thiện đến cảnh xuân thăng.
Hỏi: Gần hai nghìn năm đô hộ giặc Tàu. Trăm năm đô hộ giặc Tây. Chúng đã làm lu mờ truyền thống Văn Hóa Dân Tộc ta. Làm cho Con Cháu Việt Nam rơi vào cảnh loạn lạc, mất phương hướng chia năm xẻ bảy không đoàn kết được, thì ta phải làm sao?
Đáp: Còn làm sao nữa, Dân Ta phải học sử ta, Con Cháu Tiên Rồng phải học Văn Hóa Tiên Rồng. Lịch sử Văn Hóa Tiên Rồng là lịch sử Cội Nguồn, liên quan đến lịch sử Nhân Loại con người, toàn thế giới nói riêng toàn Vũ trụ nói chung. Không phải lịch sử của sự đấu tranh, tranh giành quyền lực. Mà là lịch sử Chính Nghĩa vì hòa bình, chống bạo ác. Loại bỏ Độc Tài Độc Trị vì không còn phù hợp với trào lưu văn minh tiến bộ xã hội. Nhất là đi ngược lại Truyền Thống Dựng Nước Giữ Nước Truyền Thống Anh Linh Ông Cha. Dẫn đến hơn hai nghìn đô hộ Phương Bắc Giặc Tàu. Sự đấu tranh Chính Nghĩa là sự đấu bằng trí tuệ và Văn Hóa Chính Nghĩa đấu tranh ôn hòa, vũ khí của Chính Nghĩa. Là Hiến Pháp Nhân Quyền Dân Chủ. Là Công Lý Công Bằng Tự Do, Làm theo Thiên Ý Cha Trời, bảo vệ phát huy những Quyền mà Tạo Hóa Cha Trời đã ban cho. Những Quyền bất khả xâm phạm. Phát huy đề cao hai chữ Đồng Bào thiêng liêng.
Từ thuở Cha Ông đến nhân gian
Long Hoa dãy núi nở Hoa vàng
ÂU CƠ một bọc trăm con trẻ
Ra đời chung sống ở thế gian
Đại Đồng một Cội từ muôn thuở
Lưu truyền nòi giống, nở cháu con
Rồng Tiên Cội Gốc niềm linh hiển
Đồng Bào đồng thể Cội Vàng Son.
Dù cho con Cháu Việt Nam có lưu lạc đến nơi đâu, cũng mãi mang hai chữ Đồng Bào trong dòng máu Tiên Rồng Đại Việt.
Nước đã ra đi, Nước về Nguồn
Một Bào một Bọc Cội tình thương
Sử ta, ta học, ta ca hát
Một Cội trăm nhành nở Hoa Hương
Truyền thống Cha Ông nền Chính Nghĩa
Chóa rạng Trời Nam sử Hùng Vương
Lịch sử vàng son còn vang mãi
Ngấm vào Con Cháu giống Rồng Tiên.
Lịch sử Ông Cha hào hùng. Thấm đượm Đạo Đức Nhân Văn Cao Cả. Nhưng vì Phần lớn là do thất truyền, một phần do ngoại xâm đô hộ, phá sạch, đốt sạch, quét sạch, tiêu diệt sạch. Để ngoại xâm dễ cai trị. Dễ bề khống chế Tinh Thần Con Cháu Rồng Tiên.
Lịch Sử Cha Ông lịch sử vàng
Hào hùng diệt quỉ dựng Nước Non
Lãnh Nam trận chiến rền Trời Đất
Quét sạch Yêu Tinh Chí ngút ngàn
Ngày đêm khai phá miền đất mới
Bừng bực mọc lên nước Văn Lang
Sử ta, ta học còn không hết
Còn đâu đèo gánh sử ngoại bang.
Lịch sử Cha Ông nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm, nghe vó ngựa chân voi vang rền tiến về Đất Lãnh Nam dựng cơ nghiệp.
Long vân Đại Hội Đạo ngút Trời
Âu – Lạc Hùng Thiên dậy biển khơi
Vó Ngựa chân voi rền dậy đất
Lãnh Nam dựng nghiệp rạng Vua tôi
Văn Lang hùng mạnh rền phương Bắc
Năm nghìn năm trước chẳng xa xôi
Nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm
Ấm Nguồn ấm Cội, ấm lòng ôi.
Hỏi: Con Cháu Việt Nam, dựa vào đâu để có một sức mạnh, chống trả quân thù, nhất là quân xâm lược?
Đáp: Phải nói Con Cháu Việt Nam đang làm chủ một kho tàng sức mạnh. Nhưng Con Cháu Việt Nam chưa bao giờ phát huy hết được, vì chưa khai thông được Cội Nguồn. Nếu khai thông được Cội Nguồn thời Con Cháu Việt Nam, sẽ phát huy cả một kho tàng sức mạnh. Đó là:
Sức mạnh hai chữ Đồng Bào
Sức mạnh khí thiên sông núi
Sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc
Sức mạnh Hồn Thiên Cha Ông
Sức mạnh Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa
Sức mạnh Tổ Tiên
Sức mạnh Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ
Sức mạnh bè bạn Năm Châu, năm màu da anh em
Một khi Con Cháu Tiên Rồng, phát động Văn Hóa Cội Nguồn, phát động truyền thống Cha Ông, truyền thống dựng Nước, giữ Nước, phát động Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời thời sức mạnh Đại Chính Nghĩa toàn nhân loại ứng theo không có sức mạnh nào mạnh hơn nữa.
Sức mạnh nào hơn mạnh Đại Đồng
Đất Trời vào cuộc chuyển bão dông
Phật Tiên giúp sức Thần Thánh Chúa
Chuyển xây tình thế chuyển Non sông
Hồn Thiên trỗi dậy rung Trời Đất
Vó Ngựa vang rền bước Cha Ông
Đồng Bào cuồn cuộn vào cuộc thế
Yêu Tinh, Quỉ dữ mạng tiêu vong.
Con Cháu Rồng Tiên, những người có Tài có Đức, vì Dân vì Nước, vì Cội vì Nguồn, vì Nhân Loại Đồng Bào anh em, mỗi lần phát động phong trào, thì có Tam quang tỏa sáng.
Pháp Tạng bừng lên khắp hư không
Luật Tạng bừng lên chuyển Đại Đồng
Công Lý sáng ngời vang tiếng sấm
Tam Quang sấm nổ dậy Trời Đông
Gươm Thiên vũ trụ đà xuống thế
Diệt trừ ác Quỉ diệt bất công
Trả lại tự do đời tươi sáng
Bình Đẳng an vui Cội Đại Đồng.
Long Hoa Mật Tạng. Quốc Bảo Chân Kinh. Là bộ Kinh không những tối Đại Linh Thiên. Quý hiếm vô cùng, không những là con đường về Trời mà còn là chiếc chìa khóa vạn năng mở tung vũ trụ, khai thông trí huệ, đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác. Bất tử trường sanh, chuyển họa thành phúc, chuyển phàm lên Thánh, lên Phật, lên Tiên. Cứu Dân cứu Nước. Phải nói là hết sức vi diệu thậm thâm khó mà luận bàn cho hết được.
Quốc Bảo Chân Kinh quí vô cùng
Một lời khen ngợi mãi giàu sang
Huống chi truyền bá gieo Công Đức
Họa tiêu phước đến Chúa đăng đàn
Mật Tạng Chân Kinh Trời trao xuống
Cứu Dân cứu Nước khổ lầm than
Chuyên tâm đọc tụng, luôn trì niệm
Huệ khai trí sáng trổ ông Hoàng.
Việc làm vì Chính Nghĩa dù nhỏ như sợi lông, cũng vô cùng giá trị, không có một thứ giá trị nào sánh kịp. Long Hoa Mật Tạng Kinh. Là Kinh giáo Mật Tạng vũ trụ, hiện thân Chính Nghĩa. Con Cháu Việt Nam phải hết sức gìn giữ. Và sự gìn giữ đó, chính là phổ biến khắp cùng thế giới, không phải cất giấu bí mật. Chỉ cần gìn giữ bảo mật bản gốc mà thôi.
BỘ KINH
LONG HOA MẬT TẠNG
CỘI NGUỒN VIỆT TỘC
ĐẾN ĐÂY ĐÃ KẾT THÚC
CHỦ BÚT: CAO ĐỨC THẮNG
-
QUỐC BẢO
CHÂN KINH
LONG
HOA
THIÊN
TẠNG
THỜI TAM HOÀN
TIÊN ĐẾ
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2014
Dr. Cao Đức Toàn
CHƯƠNG 1
PHẦN 1
HƯ KHÔNG VŨ TRỤ
Cách đây khoảng hai trăm nghìn năm trăm lẻ ba triệu năm, ở vào khoảng thời gian ấy Vũ trụ TA BÀ chỉ là một khoảng chân không.
1 - Trong khoảng chân không rộng lớn cùng khắp ấy có một BẢN THỂ LINH GIÁC TỐI CAO, rộng lớn như hư không chỗ nào cũng có, đó là BẢN THỂ LINH GIÁC TỐI CAO, KHAI HÓA, TẠO HÓA, TỔ TIÊN.
2 - Bản thể linh giác tối cao khai hóa, tạo hóa TỔ TIÊN, bản thể ĐỘC LẬP, TỰ DO, BÌNH ĐẲNG.
3 - Bản thể khai hóa, tạo hóa TỔ TIÊN, thể tướng Như hư không, VÔ TƯỚNG. VÔ TƯỚNG chính là thật tướng của TỔ TIÊN, không những thể tướng của tổ tiên là thể tướng vô tướng, Mà thể TÁNH của tổ tiên là VÔ TÁNH, vô tánh cũng là tánh, thật TÁNH CỦA TỔ TIÊN.
4 - Bản thể linh giác tối cao tổ tiên, BẢN THỂ VÔ VI TRONG SẠCH, không cấu nhiễm, ví như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Chính vì sự không cấu nhiễm trong sạch nầy, là tối đại linh thiêng của LINH GIÁC BẢN THỂ, linh giác tối linh LIÊN HOA HẢI TẠNG VŨ TRỤ.
5 - Bản thể linh giác TỐI CAO TỔ TIÊN, không những vô vi trong sạch, không cấu nhiễm, mà cả CHÂN TÂM, CHÂN TÁNH cũng trong sạch vô vi. Cũng chính vì sự trong sạch vô vi không cấu nhiễm, cũng như sự trong sạch chân tâm chân tánh trở thành bản thể minh tâm kiến tánh vũ trụ. Bản thể linh giác tối cao vũ trụ, TÂM KHÔNG, trong sạch vô vi, TÁNH KHÔNG trong sạch vô vi, TƯỚNG KHÔNG trong sạch vô vi, Ý KHÔNG, trong sạch vô vi, THỨC KHÔNG trong sạch vô vi. Nên tự bản thể linh giác tối cao vũ trụ THẤY – NGHE – HAY – BIẾT, khắp cùng vũ trụ. Sự thấy, nghe, hay, biết, ở đây là sự thấy nghe hay biết toàn bản thể hư không vũ trụ, cái thấy khắp cùng, cái nghe khắp cùng, cái hay khắp cùng, cái biết Khắp cùng.
6 - Bản thể linh giác tối cao vũ trụ linh giác TỔ TIÊN, không những không cấu nhiễm trong sạch vô vi, mà còn trong sạch, không MÀU, không SẮC, không MÙI, không VỊ, và cũng chính sự trong sạch không cấu nhiễm, không màu, không sắc, không mùi, không vị nầy, không những tự bản thể linh giác thấy, nghe, hay, biết, toàn năng toàn giác toàn bản thể, mà còn PHẢN KHÁNG, CẢM ỨNG, PHẢN TỈNH ĐO LƯỜNG, trở thành CÁN CÂN CÔNG LÝ BẢN THỂ VŨ TRỤ. Cán cân công lý công bằng bình đẳng vũ trụ.
7 - Bản thể linh giác tối cao, linh giác KHAI HÓA TỔ TIÊN, bản thể linh giác ĐẠI ĐỒNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, và cũng chính bản thể đại đồng, độc lập, tự do, bình đẳng nầy trở thành bản thể CHÂN LÝ tối cao của sự sống, trở thành thiên luật tối cao vũ trụ, trở thành Thiên Ý của Đức Cha Trời. Sự sống tối cao vũ trụ chính là bản thể linh giác CỘI NGUỒN bản thể tối cao của tất cả sự sống. Bản thể KHAI HÓA TẠO LẬP LÊN TẤT CẢ. Bản thể tối cao lập lên tất cả, là bản thể hợp nhất bản thể ĐẠI ĐỒNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, BÌNH ĐẲNG.
8 - Bản thể đại đồng, độc lập, tự do, bình đẳng, là bản thể Cội Nguồn tối cao HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG tối cao vũ trụ, khi chưa khai hóa tạo lập vũ trụ.
9 - Bản thể linh giác tối cao HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG tối cao vũ trụ, khai hóa tạo lập vũ trụ, khai tạo lập lên tam thiên, đại thiên thế giới, các tầng TRỜI, các tầng ĐỊA PHỦ, TRẦN GIAN. Bốn cõi, Thiên hà, ngân hà, nhật nguyệt, tinh tú, muôn sanh linh sự sống, côn trùng, cỏ cây, cầm thú, cho đến con người, v.v… Thì bản thể HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, CỘI NGUỒN TỐI CAO VŨ TRỤ, Chuyển thành THIÊN LUẬT VŨ TRỤ, THIÊN Ý CHA TRỜI, cán cân CÔNG LÝ VŨ TRỤ.
10 - Bản thể linh giác TỔ TIÊN tối cao vũ trụ là bản Thể linh giác tối cao của sự TỰ NHIÊN, không ai sanh ra, cũng không mất đi, trường tồn bất diệt, trước sau như một, không có sự khởi đầu, không có sự kết thúc, không quá khứ chẳng vị lai, một bản thể như hư không bao trùm vũ trụ, bao trùm hoàn vũ, không đi không đến, tất cả sự sống đều nằm trong sự sống Đại Đạo tối cao nầy.
11 - Bản thể linh giác tối cao vũ trụ linh giác TỔ TIÊN, không những như như thường còn, mà còn mãi mãi tột thế vô tận của vị lai, vì vậy danh từ NHƯ LAI TỔ TIÊN vẫn là danh từ khế hợp nhất.
12 - Bản thể linh giác khai hóa tổ tiên, bản thể BẤT SANH, BẤT DIỆT, BẤT CẤU, BẤT NHIỄM, BẤT TĂNG, BẤT GIẢM, KHÔNG SẮC, KHÔNG MÀU, KHÔNG MÙI, KHÔNG VỊ, Ý KHÔNG, THỨC KHÔNG, TÂM KHÔNG, TÁNH KHÔNG, TỰ NHIÊN TRONG SẠCH VÔ VI chính là bản thể Hiến tạng, Pháp tạng, Luật tạng, bản thể linh giác tối cao vũ trụ, linh giác ĐẠI ĐỒNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, BÌNH ĐẲNG.
13 - Vì thế nhân loại con người là CON CHÁU của Khai Hóa TỔ TIÊN, hướng về CỘI NGUỒN cũng chính là hướng về CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, đi vào hợp nhất theo luật công bằng, theo luật bình đẳng, theo luật độc lập, theo luật tự do, theo luật tự nhiên tự thể của bản thể ĐẠI ĐỒNG HỢP NHẤT thể.
14 - Hướng về CỘI NGUỒN khác với hội nhập CỘI NGUỒN. Hướng về Cội Nguồn là hướng về công bằng, bình đẳng, hướng về độc lập tự do. Còn hội nhập Cội Nguồn là sự hội nhập Bọt nước hội nhập vào bản thể Nước, Bọt nước trở về là Nước, Linh thức trở thành Linh Giác, Thức tâm, Thức tánh, trở thành Chân tâm Chân tánh. Chân tâm chân tánh chính là TÂM KHÔNG, TÁNH KHÔNG, TRÍ KHÔNG, Ý KHÔNG, THỨC KHÔNG. LÀM CHỦ CHÂN TÂM CHÂN TÁNH, Cũng có nghĩa là LÀM CHỦ SỰ CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐẠI ĐỒNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỐI CAO VŨ TRỤ.
15 - Bản thể linh giác tối cao TỔ TIÊN, ví như NƯỚC, còn linh THỨC, linh hồn muôn sinh linh sự sống, ví như BỌT NƯỚC. Cũng chính vì NƯỚC SANH RA BỌT NƯỚC, LINH GIÁC SANH RA LINH THỨC, CHÂN TÂM CHÂN TÁNH, SANH RA THỨC TÂM THỨC TÁNH, nên nước – bọt nước, linh giác – linh thức, chân tâm chân tánh – thức tâm thức tánh, không khác nhau, đồng tánh thể, bản thể, NƯỚC CÓ những gì, thì BỌT NƯỚC cũng y như vậy, linh giác có những gì, thì linh thức cũng y như thế. Chân tâm chân tánh có những gì, thì thức tâm thức tánh cũng có y nhau, bản thể của NƯỚC, công bằng, bình đẳng, độc lập, tự do, thì bọt NƯỚC cũng có những đức tánh ấy, ẨN TÀNG TRONG BỌT NƯỚC.
16 - Đây chính là sự tương thông đồng nhất giữa bản thể NƯỚC và BỌT NƯỚC, tương thông giữa linh Giác TỔ TIÊN ĐẠI LINH HỒN VŨ TRỤ, với LINH THỨC TIỂU LINH HỒN CON CHÁU.
17 - Bản thể linh giác, NƯỚC tối cao vũ trụ, bản thể đại đồng, công bằng, bình đẳng, độc lập tự do, Thì linh thể LINH THỨC BỌT NƯỚC, cũng có thể tánh của nước, thành chủng tánh của bọt nước, chủng tánh đại đồng, công bằng, bình đẳng, độc lập tự do.
18 - Nhân loại hướng về ĐẠI ĐỒNG, hướng về CÔNG BẰNG, hướng về BÌNH ĐẲNG, hướng về ĐỘC LẬP, hướng về TỰ DO, chính là hướng về CỘI NGUỒN. Lần lần hội nhập Cội Nguồn theo Hiến Tạng, Pháp Tạng, Luật Tạng tối cao vũ trụ, ẨN TÀNG trong mỗi linh hồn con người.
19 - Đấu tranh giành lại sự CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, TỰ CHỦ, TỰ DO, THEO HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, chính là sự đấu tranh chính nghĩa, khế hiệp lòng người, lòng trời, khế hiệp Bản thể linh giác tối cao vũ trụ, TỔ TIÊN, TRỜI, NGƯỜI, HỢP NHẤT.
20 - Nhân loại con người là con cháu của KHAI HÓA TỔ TIÊN, hướng về CỘI NGUỒN chính là hướng về CÔNG BẰNG, hướng về BÌNH ĐẲNG hướng về ĐỘC LẬP, hướng về TỰ DO, và tiến tới hội nhập công bằng, hội nhập bình đẳng, hội nhập độc lập, hội nhập tự do, và tiến tới làm chủ Tối cao của sự CÔNG BẰNG, tối cao của sự BÌNH ĐẲNG, cũng như tối cao của sự TỰ CHỦ, ĐỘC LẬP, TỰ DO. Trở thành Nhân Quyền con người, Cao hơn nữa là Thiên quyền con người. Hiện nay nhân loại con người mới tiến hóa đến Nhân Quyền Dân Chủ, và sẽ tiến tới Thiên Quyền, Nhân Chủ. Tiến tới Thiên Quyền, Nhân Chủ có nghĩa là đã tiến tới Chủ Nghĩa Đại Đồng.
21 - Bản thể tối cao vũ trụ, bản thể linh giác TỔ TIÊN bản thể công bằng, độc lập, tự do, bình đẳng, nhưng khi Bản thể đã chuyển thể từ Linh Giác sang Linh Thức. Ví như TỪ NƯỚC chuyển sang BỌT NƯỚC, thì bản thể công bằng, bình đẳng, độc lập tự do từ NƯỚC, chuyển thành cái quyền của BỌT NƯỚC, những quyền thiêng liêng, quyền bất khả xâm Phạm, nói chung là Nhân quyền. Thiên Quyền con người.
22 - Quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền độc lập, quyền tự do, quyền tự chủ, quyền ngôn luận, quyền mưu cầu hạnh phúc, nói chung những gì bản thể linh giác tối cao Đại Linh Hồn vũ trụ có, thì linh thức Tiểu Linh Hồn vũ trụ cũng có, trở thành những quyền cơ bản của mỗi linh hồn. NHÂN QUYỀN và THIÊN QUYỀN của mỗi con người, những quyền thiêng liêng quyển bất khả xâm phạm.
23 - Bản thể linh giác tối cao vũ trụ, là bản thể HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, THIÊN TẠNG, MẬT TẠNG, đây chính là kho tàng tri kiến vô tận vũ trụ, mà mỗi Linh Hồn con người tiến hóa khai thác cho đến cuối cùng, tiến tới làm chủ, năm kho báu ấy.
24 - Quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền độc lập, quyền tự do, quyền tự chủ, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền cơ bản của mỗi con người, của mỗi dân tộc, những quyền thiêng liêng quyền bất khả xâm phạm, nhưng chủ nghĩa ĐỘC QUYỀN, ĐỘC TÀI, ĐỘC TRỊ, đã vi phạm trắng trợn, quyền cơ bản của mỗi con người, quyền cơ bản của mỗi dân tộc, tước đoạt, cướp đoạt, những quyền thiêng liêng ấy, đi ngược lại công bằng, bình đẳng, công lý hóa công tạo hóa vũ trụ, không những họ đã đi ngược lại Thiên Ý Cha Trời, Thiên Luật vũ trụ, mà còn chính họ đã đi ngược lại những quyền cơ bản của chính họ, mà Tạo Hóa đã ban cho họ.
25 - Đây là một điều không thể chấp nhận được, và chính sự công bằng bình đẳng tự do của mỗi con người, của mỗi xã hội, đã bị tước đoạt. Sự tiến bộ nhân loại, cán cân công lý hóa công Tạo Hóa loại bỏ họ. Buộc độc tài độc trị trả lại những quyền cơ bản của con người.
26 - Trả lại những quyền cơ bản, mà Tổ Tiên quyền tạo hóa đã ban cho mỗi con người, mỗi dân tộc, là việc làm hợp lòng Người, hợp lòng Trời, hợp Thiên Luật, việc làm đầy Chính Nghĩa, đầy sáng suốt không còn sự sáng suốt nào hơn, vì không một ai chống lại nổi Thiên Luật vũ trụ, Thiên Ý Cha Trời, nhất là sự phản kháng đấu tranh dâng cao đòi lại Quyền con người, lòng Dân đã hợp lòng Trời, thi không còn một thế lực nào chống đỡ được nữa.
27 - Bảo vệ quyền thiêng liêng con người Nhân Quyền, QUYỀN SỐNG, QUYỀN CÔNG BẰNG, QUYỀN BÌNH ĐẲNG, QUYỀN ĐỘC LẬP, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN TỰ CHỦ, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC, QUYỀN NGÔN LUẬN, QUYỀN TỰ QUYẾT, QUYỀN TỰ NGUYỆN, nói chung là 36 quyền chính và 72 quyền phụ là Những quyền bất khả xâm phạm. Nói chung là có tới 8 muôn 4 nghìn quyền, nhưng ở đây chỉ nêu lên một số quyền cơ bản, NHÂN QUYỀN CON NGƯỜI, cao hơn nữa là THIÊN QUYỀN. Bảo vệ quyền con người là việc làm cao cả, không có việc làm cao cả nào hơn.
Hết phần 1 chương 1
Mời các bạn xem tiếp phần 2 chương 1
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
-
CHƯƠNG 1
PHẦN 2
KHAI LẬP VŨ TRỤ
1 - Bản thể Linh Giác tối cao, linh giác KHAI HÓA TỔ TIÊN, đại linh hồn vũ trụ, Phải mất 3 trăm 36 triệu năm, khai tạo THẦN LỰC ở Giai đoạn kiếp không, giai đoạn đại định, và kéo dài khai tạo THẦN LỰC VŨ TRỤ, 1 nghìn 8 triệu năm.
2 - Phải mất 3 trăm 36 triệu năm chuyển hóa THẦN LỰC VŨ TRỤ, khai tạo ra CHÂN KHÍ VŨ TRỤ. Thần lực chuyển thành chân khí. Thể lực chuyển thành thể hơi.
3 - Phải mất 3 trăm 36 triệu năm nữa KHAI HÓA TỔ TIÊN mới chuyển hóa CHÂN KHÍ khai tạo ra thể LỎNG, NƯỚC.
4 - Phải mất 3 trăm 36 triệu năm nữa TỔ TIÊN mới chuyển hóa THỂ LỎNG, NƯỚC khai tạo ra LỚP MÀU MỠ PHÙ SA, LỚP BỤI VŨ TRỤ, rồi từ lớp bụi màu mỡ nầy kết tụ thành ĐÁ rồi từ ĐÁ chuyển hóa thành ĐẤT, thể lỏng chuyển thành thể đặc.
5 - Từ thể nầy chuyển hóa khai tạo sang qua thể kia, Phải mất 20 lần chuyển hóa tăng giảm. Một lần chuyển hóa phải mất 16 triệu 800 nghìn năm.
6 - Chuyển hóa hết một thể THỂ KHÍ, THỂ HƠI HAY THỂ LỎNG, phải mất 3 trăm 36 triệu năm cho 20 lần chuyển hóa tăng giảm. Cứ 1 đợt chuyển hóa, lực già chuyển hóa ra khí, thành khí, phải mất 16 triệu 800 nghìn năm, khí già chuyển hóa ra nước, thành nước, cũng y như vậy, phải mất 16 triệu 800 nghìn năm, từ thể lỏng thoái hóa già cỗi chuyển sang thể đặc thành lớp bụi vũ trụ cũng phải mất một thời gian như trên, là 16 triệu 800 nghìn năm, cho một đợt chuyển hóa.
7 - THỂ LỰC, THỂ KHÍ, THỂ LỎNG, chuyển hóa sang thể khác, mỗi thể đều có 20 đợt già thoái hóa chuyển thể như thế, nên làm cho các thể dưới tăng lên hạ xuống, của một thể, cũng như sự tăng lên giảm Xuống của một đợt thoái hóa chuyển hóa, đây chính là nguyên nhân gây ra ĐẠI HỒNG THỦY, SÓNG THẦN VÀ ĐỘNG ĐẤT, cũng như hỏa địa, động Đất, núi lửa lần lượt xuất hiện khắp địa cầu năm châu Biển ở giai đoạn đầu kiếp giảm, và HỒNG THỦY, SÓNG THẦN, ĐỘNG ĐẤT, xuất hiện về sau càng nhiều, càng mạnh, cũng như mưa to gió lớn, càng về cuối tiểu kiếp, của kiếp giảm, Kiếp tăng của một tiểu kiếp là 8 triệu 400 nghìn năm, Kiếp giảm của một tiểu kiếp cũng y như thế 8 triệu 400 nghìn năm.
8 - KHAI HÓA TỔ TIÊN khai hóa tạo lập ra bốn thể, THỂ LỰC, THỂ KHÍ, THỂ LỎNG, THỂ ĐẶC, Kéo dài sự khai tạo ấy 1 nghìn 8 triệu năm, và phải mất 3 trăm 36 triệu năm để khai lập vũ trụ và Khí hỏa Đại xuất hiện thành ngũ đại.
9 - Thành lập tam thiên đại thiên thế giới, các TẦNG TRỜI. Thất sơn châu báu, năm non bảy núi cũng như bốn cõi TRẦN GIAN, và các TẦNG ĐỊA PHỦ, THIÊN HÀ, NGÂN HÀ, NHẬT, NGUYỆT, TINH TÚ, sau cùng là bốn quả ĐỊA CẦU, tức là bốn cõi trần gian. (Xem Long Hoa Mật Tạng Kinh sẽ nói rõ hơn).
10 - Khai hóa TỔ TIÊN, phải mất thêm 16 triệu 800 Nghìn năm nữa, để cho bốn quả ĐỊA CẦU TRẦN GIAN, nguội đi ổn định tuần hoàn.
11 - Phải mất thêm 16 triệu 800 nghìn năm nữa khai hóa màu xanh hình thành RONG RÊU, tiến hóa lên loài THẢO MỘC, vi trùng tiến hóa lên CÔN TRÙNG.
12 - Phải mất thêm 16 triệu 800 nghìn năm nữa, để cho các loài CÔN TRÙNG, tiến hóa lên các loài BÒ SÁT, các loài CẦM – THÚ. Phải mất thêm 285 triệu 600 nghìn năm nữa, thì các loài BÒ SÁT, các loài CẦM – THÚ, mới tiến hóa đến đỉnh cao không còn tiến hóa được nữa.
13 - Phải mất thêm 75 triệu năm để cho các loài BÒ SÁT, các loài CẦM – THÚ, sát phạt ăn nuốt lẫn nhau Tiến hóa Linh Thức, Ý Căn, chủng tánh, đến khi không còn tiến hóa được nữa, thời gian trải qua 75 triệu năm, Ý căn Linh thức chủng tánh của các loài bò sát, cầm, thú, không tiến hóa được nữa, mà chỉ tăng thêm sự Hung dữ ác tánh mà thôi.
14 - Và cứ thế các loài bò sát, các loài cầm thú, sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, đầu thai qua lại, sự sát phạt ăn Nuốt lẫn nhau càng về sau càng khốc liệt, trải qua 600 nghìn năm nữa.
15 - Đến lúc nầy KHAI HÓA TỔ TIÊN, mới hiện thân ra ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU MẸ TRỜI. Cha Trời cốt RỒNG, Mẹ Trời cốt TIÊN, bay đến quả ĐỊA CẦU Nam Thiện Bộ Châu, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống, con người. Để cho các linh hồn, bò sát, cầm, thú, đầu thai vào loài người, dòng giống TIÊN RỒNG, tu luyện tiến hóa linh hồn tiến đến ý thức nhận thức, kết quả trí tuệ Trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN CHÚA, lên ngôi CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, làm chủ chân tâm chân tánh làm chủ vũ trụ.
16 - Sự xuất hiện CHA TRỜI, ĐỊA MẪU chốn nhân gian, sanh con đẻ cái, đã đánh dấu mốc son lịch sử ra đời của nhân loại trần gian, và cũng từ đây địa cầu NAM THIỆN BỘ CHÂU đã có nhân loại con người sanh sống, Ông Bà Tổ Tổ Tổ, đầu tiên của nhân loại con người.
Hết phần 2 chương 1
Mời các bạn xem tiếp phần 3 chương 1
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 1
PHẦN 3
KIẾP SỐ
1 - KHAI HÓA TỔ TIÊN, khai tạo lập lên bốn quả ĐỊA CẦU, trần gian, phải trải qua bốn chu kỳ đại hóa tuần hoàn THÀNH – TRỤ – HOẠI – KHÔNG.
2 - Kiếp thành, có 20 tiểu kiếp, kiếp trụ, kiếp hoại, kiếp không, cũng vậy, mỗi kiếp đều có 20 tiểu kiếp. Tổng cộng một chu kỳ đại hóa tuần hoàn THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG, là 80 tiểu kiếp, 80 lần tăng, 80 lần giảm. Một tiểu kiếp là 16 triệu 800 nghìn năm, 1 lần tăng là 8 triệu 400 nghìn năm, một lần giảm cũng vậy 8 triệu 400 nghìn năm.
3 - Ở kiếp THÀNH, có 20 tiểu kiếp, 20 lần tăng 20 lần giảm kéo dài 3 trăm 36 triệu năm, ở kiếp trụ, kiếp hoại, kiếp không cũng như vậy.
4 - Bốn kiếp cộng lại thành 1 nghìn 3 trăm 44 triệu năm (một đại kiếp).
5 - Nhưng tuổi thọ của quả ĐỊA CẦU, chỉ tính từ kiếp thành, kiếp trụ, kiếp hoại, là 1 nghìn 8 triệu năm. Tuổi thọ bốn quả địa cầu ngang nhau.
6 - Sự sanh sôi nảy nở sự sống, rong rêu, côn trùng, thảo mộc, bò sát, cầm thú, kéo dài hàng tiểu tiểu kiếp. Con người ra đời ở vào kiếp trụ, giữa tiểu kiếp thứ 5 của kiếp trụ.
Hết phần 3 chương 1
Mời các bạn xem tiếp phần 4 chương 1
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 1
PHẦN 4
DÃY NÚI LONG HOA, ĐỊA LONG VŨ TRỤ
1 - Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm giữa tiểu kiếp thứ 5 (kiếp trụ), thời ấy là thời kỳ đỉnh cao của chánh khí tiên thiên, nên các tầng trời, trần gian, các tầng địa phủ đều tương thông, thuận lợi cho con người ra đời, vì ở vào giai đoạn nầy là giai đoạn đỉnh cao của chánh khí tiên thiên, nên tuổi thọ CÔN TRÙNG, THẢO MỘC, SANH LINH VẠN VẬT, tuổi thọ rất cao sống lâu vô kể.
2 - Ở vào thời kỳ ấy ở PHƯƠNG ĐÔNG quả địa cầu có một dãy núi, cao, to, dài, rộng, lớn, vô cùng lượng hình chữ S hàng nghìn nghìn dặm.
3 - Lưng chừng dãy núi quanh năm tuyết phủ, che lấp hết thảy những ngọn núi kỳ vĩ, những đỉnh núi cao chót vót, thi nhau chạy dài NAM – BẮC. Trên không trung nhìn xuống thì đó là một con RỒNG, ĐỊA LONG KHỔNG LỒ, đang lượn mình bay về vũ trụ.
4 - Cảnh quan nhộn nhịp, chim muông, vạn thú, lúc nhúc khắp nơi, đông vô số, nhiều vô biên, không Thể tính đếm, không thể luận bàn cho hết được. Phần nhiều muôn loài CẦM, THÚ đều có pháp thuật thần thông, sự đi đi lại lại kiếm ăn của các loài thần cầm, thần thú, thường gây lên những cơn gió lốc, làm cây cối ngã đổ ầm ầm. Lại thêm loài RỒNG đánh nhau với loài QUỈ thường gây ra dông bão dữ dội. Nhất là loài rồng đánh nhau, với MỘC QUỈ, HỒ QUỈ, NGƯ QUỈ, tạo ra cảnh mù trời mịt đất chết chóc ghê hồn.
5 - Dãy núi Long Hoa Địa Long Trái Đất, hình chữ S, Không những cao chót vót, mà còn dài xa thăm thẳm rộng lớn vô cùng, bao gồm ba nước, LÀO, CAMPUCHIA, VIỆT NAM, VÂN NAM TRUNG QUỐC, hình thể như một con RỒNG vươn mình bay về vũ trụ.
6 - Chân núi ở phía ĐÔNG của dãy núi, rộng xa dài thăm thẳm, giáp liền với các ĐẢO HẢI NAM, HOÀNG SA, TRƯỜNG SA ngày nay.
7 - Chân núi ở phía TÂY của dãy núi, dài rộng xa thăm thẳm giáp liền MEGUITAVOI, NAMTU, MIKINA, bao gồm THÁI LAN, MIẾN ĐIỆN.
8 - Chân núi ở phía NAM của dãy núi dài, rộng xa thăm thẳm, Giáp liền MALAYXIA.
9 - Chân núi ở phía BẮC của dãy núi dài, rộng, xa thăm thẳm, giáp liền tới sông TRƯỜNG GIANG, bao hàm hầu hết Giang Nam Lãnh Nam Trung quốc.
10 - Một dãy núi, dài, rộng, cao, to, vô cùng kinh khiếp, cộng thêm chân núi bốn phía xung quanh bao trùm nhiều lãnh địa rộng lớn như đã kể trên. Chưa hết, còn có bảy dãy núi khác nữa, bao bọc xa Gần, nói chung là bảy nước láng giềng xa gần ĐÔNG NAM Á hiện nay.
11 - Dãy núi Long Hoa không những, dài, rộng, cao to lớn như đã nói trên, hình thể như một con rồng vươn mình bay lên hư không vũ trụ, mà còn phát ra ánh sáng nhất là khúc giữa của Dãy núi.
12 - Vì khúc giữa của dãy núi, nằm sâu dưới lòng núi, có một khoảng trống chạy dài uốn lượn theo dãy núi hơn nghìn dặm, chứa đầy linh khí, tinh khí Linh cốt Địa Long hết sức hiếm quí, dãy núi vì thế mà phát sáng.
13 - Trên khắp những đỉnh núi chạy dài Nam Bắc tuyết phủ quanh năm tạo ra nguồn nước bất tận, tuôn chảy xuống chân núi, làm cho sự sống càng sanh sôi nẩy nở, côn trùng, thảo, mộc, bò sát, cầm, thú, càng lúc càng nhiều càng đông.
14 - Với con mắt THẦN THÁNH thì nhìn thấy rõ Chân núi, lưng chừng núi, đỉnh núi, lồ lộ hiện ra vô số hang động, những màng che trắng xóa thác nước, vừa kín vừa hở, làm cho cửa động tăng thêm sự huyền bí.
15 - Quan cảnh dãy núi không những sắc màu sặc sỡ, mà còn nhộn nhịp, náo nhiệt, bởi cỏ cây hoa Lá, chim muôn vạn thú vô số kể, vô tận vô biên. Nhìn màu xanh cây cao bóng cả tàng tán tròn xoe chen chúc lẫn nhau bạt ngàn vô tận, mây nhìn cảnh, cảnh nhìn mây, hoa đua sắc, sắc đua chen gió luôn choáng ngộp lượn quanh chẳng dừng, đèo mây lớp lớp trùng trùng, núi non xuân hội vạn nghìn sắc hoa.
16 - Dãy núi Long Hoa không những đẹp hơn tranh vẽ, bốn bên chân núi rừng xanh thăm thẳm bạt ngàn trải dài vô tận, Mà cảnh quan vạn hội sặc sỡ muôn sắc vạn màu chẳng khác gì nghìn vạn nét xuân, sông suối quanh co trong vắt uốn lượn, gương hồ, mây trời thu gọn, xuân, hạ, thu, đông, chuyển vận xây.
17 - Thời tiết ở bốn phía chân núi, chuyển vận theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, Khi chân núi phía BẮC khí hậu lạnh mưa to gió lớn lụt lội, thì ngược lại chân núi ở phía NAM lại là mùa nắng ấm.
18 - Chân núi phía TÂY chuyển mình lạnh lẽo, thì chân núi phía ĐÔNG lại đi vào mùa nắng ấm áp khô ráo, có thể nói lãnh địa dãy núi Long Hoa là vùng đất thánh, lãnh địa đất trời, tinh hoa thu gọn càn khôn.
19 - VÔ CỰC – THÁI CỰC – LƯỠNG NGHI – ÂM, DƯƠNG – TỨ TƯỢNG – NGŨ HÀNH – BÁT QUÁI – THIÊN CAN – ĐỊA CHI – HÀO QUẺ, không thiếu, biến hóa vô cùng, linh ứng nhất Trái Đất. Trung tâm của dãy núi Long Hoa, linh khí, tinh khí, linh cốt Địa Long tỏa sáng hiện lên ẤN – BÚT, kỳ bí lạ lùng. Địa Long Vũ Trụ nơi linh thiêng nhất của quả địa cầu, nơi con người trần gian ra đời, và đúng như vậy.
Hết phần 4 chương 1
Mời các bạn xem tiếp phần 5 chương 1
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
-
CHƯƠNG 1
PHẦN 5
CHA TRỜI – ĐỊA MẪU XUẤT HIỆN
(LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ)
1 - Lúc bấy giờ từ nơi hư không trung tâm vũ trụ, ĐỨC KHAI HÓA TỔ TIÊN, thấy muôn loài, bò sát, cầm thú, sát phạt ăn nuốt lẫn nhau, không còn tiến hóa được nữa, lẩn quẩn đầu thai qua lại ở mãi loài bò sát, thú, cầm, với cái tánh ngu si, mê muội, của chúng ngự mãi linh hồn của chúng, làm tăng tánh dã thú ác độc man dại, ăn nuốt lẫn nhau càng thêm ghê rợn, KHAI HÓA TỔ TIÊN nhìn thấy chúng như thế mà thương.
2 - Tổ Tiên nhìn về vũ trụ nghĩ rằng, giang san của ta rộng lớn thế nầy, không người cai quản, với tánh ngu si của muôn loài vạn vật BÒ SÁT, CẦM, THÚ, Thì chúng khó mong làm chủ được vũ trụ, Nói chi đến chuyện linh hồn chúng nó giác ngộ trở về với Cội với Nguồn.
3 - Chúng mãi mãi ở lớp bò sát, thú cầm, rồi đọa lạc trở lại CÔN TRÙNG, THẢO MỘC, Thật ra mà nói linh hồn của chúng, cũng chính là linh hồn của ta, linh hồn của ta ví như NƯỚC, còn linh hồn của chúng ví như BỌT NƯỚC, linh hồn của ta là ĐẠI LINH HỒN, linh hồn của chúng là TIỂU LINH HỒN, TA SỐNG THEO CHÂN TÂM CHÂN TÁNH, còn chúng sống theo THỨC TÂM THỨC TÁNH. Ta là linh giác, Chúng là linh thức, linh hồn của Chúng, linh hồn của Ta tuy hai mà một, tuy một mà hai, nước và bọt nước, một chân, một giả, nhưng trong giả có chân, trong thức tánh có chân tánh, chân tánh là Cội Nguồn của thức tánh, Linh Giác là Cội Nguồn của Linh Thức, nước là Cội Nguồn của bọt nước.
4 - NƯỚC chỉ có một, nhưng bọt nước thì hằng hà sa số, vô lượng vô biên, ĐẠI LINH HỒN thì chỉ có một, nhưng Tiểu Linh Hồn thì vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn cho hết được. Cũng như Chân Tâm Chân Tánh thì chỉ có một nhưng Thức Tâm Thức Tánh thì vô lượng vô biên, dù trải qua vô lượng vô biên ức kiếp cũng không thể nào tính đếm hay luận bàn cho hết được.
5 - Tiểu Linh Hồn khắp các sự sống, Tiểu Linh Hồn là do Đại Linh Hồn ta tạo ra, ví như nước chuyển thể thành bọt nước. Tiểu Linh Hồn do Đại Linh Hồn sanh ra nhưng chúng quá ngu si, chúng không bao giờ tìm thấy Cội Nguồn của chúng, tức là Đại Linh Hồn vũ Trụ. Vì sao lại như thế? Vì khi KHAI HÓA TỔ TIÊN thành lập xong vũ trụ, tam thiên, đại thiên thế giới, các tầng trời, các tầng địa phủ, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà, ngân hà, bốn quả địa cầu trần gian, thì TỔ TIÊN đã cạn kiệt thần lực đi vào giấc ngủ Vô Minh sâu vào đai định, không còn kiểm soát bản thể linh giác được nữa, pháp thân Linh Giác TỔ TIẾN tiếp xúc với vật chất liền phản tỉnh trực giác, chuyển thành Linh Thức, tức là Linh Hồn của muôn sanh linh cùng vạn vật. Từ Đại Linh Hồn vũ trụ sanh khởi ra vô số vô lượng vô biên Tiểu Linh Hồn vũ trụ, mà không thể tính đếm không thể nghĩ bàn, dù cho đó là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khắp cùng vũ trụ tính đếm cả trăm nghìn kiếp cũng không thể nào đếm hết Tiểu Linh Hồn được.
6 - Tiểu Linh Hồn sanh ra liền bám lấy vật chất, ưa thích vật chất thành tính chất di căn chuyển thành di truyền, bước đầu đi vào sự sống của loài rong rêu, và tiến hóa mãi tiến lên sự sống của các loài BÒ SÁT, THÚ, CẦM, và không còn tiến hóa được nữa.
7 - Tiểu Linh Hồn của muôn loài vạn vật sanh ra ở vào giai đoạn VÔ MINH, khi Tổ Tiên đã đi vào giấc ngủ, không kiểm soát được pháp thân Linh Giác của mình, nên Linh Thức tiểu linh hồn của muôn loài vạn vật cũng đi vào tối mê, không thể nào nhận biết được Nguồn Cội của chính mình, mãi mãi trôi lăn trong vòng sanh tử, hết kiếp nầy sang kiếp khác vô tận vô biên, ví như Bọt nước u mê, thì không bao giờ chúng hiểu chúng từ Nước sanh ra. TỔ TIÊN nhìn thấy linh hồn BÒ SÁT, LINH HỒN CẦM, THÚ, cứ mãi trôi lăng trong sanh tử, đầu thai qua lại ăn nuốt lẫn nhau, ác tính khởi sanh như non như núi, xung đột tàn sát khốc liệt, và cũng hiểu rõ chúng không còn tiến hóa được nữa, và chúng mãi mãi không bao giờ tìm thấy được Cội Nguồn của chúng, đồng nghĩa là mãi mãi trôi lăng trong sanh tử, khốn khổ vô cùng, chúng vĩnh viễn ở mãi Thú, Cầm Bò Sát, ăn nuốt lẫn nhau, và đọa lạc trở về loài cây cỏ.
8 - Nên KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN, mới hiện thân ra con người, tức là ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU, một nam một nữ, cốt cách TIÊN RỒNG, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, với những mục đích như sau:
* - Là để cho Linh Hồn các loài Bò Sát, Cầm, Thú, đầu thai làm người.
* - Nhờ thể xác con người, thể xác cao cấp thể xác tiểu thiên vũ trụ, nên Tiểu Linh Hồn tiến hóa ý thức, nhận thức nhanh chóng, lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ.
* - Thay thế TỔ TIÊN, cai quản điều hành vũ trụ, lúc Tổ Tiên ngủ đi vào đại định. Cũng như lúc Tổ Tiên thức.
* - Cứu khổ cứu nạn nhân loại còn ở cảnh giới VÔ MINH, đọa lạc luân hồi, khốn khổ, điều hành nhân loại theo Thiên Luật vũ trụ, Thiên Ý Cha Trời, hiệp theo bộ máy huyền cơ tuần hoàn theo Luật Tự Nhiên tiến hóa xây chuyển vũ trụ.
* - Thay thế TỔ TIÊN lập lên cảnh giới thiên đàng cực lạc, ban hành HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, MẬT TẠNG, THIÊN TẠNG, VŨ TRỤ
* - Duy trì Hiến Tạng, Pháp Tạng, Luật Tạng, Mật Tạng, Thiên Tạng vũ trụ.
* - Bảo vệ CÔNG LÝ CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, Vũ trụ, công bằng, bình đẳng, xã hội, bảo vệ QUYỀN THIÊNG LIÊNG con người, những quyền mà TỔ TIÊN đã chuyển thể sang con cháu nhân loại con người, những quyền bất khả xâm phạm. Nhân Quyền Thiên Quyền.
* - Phát minh khoa học, toàn năng toàn giác, khoa học vũ trụ, khoa học tinh thần, khoa học vật chất, phục vụ cho đời sống cho VĂN HÓA CỘI NGUỒN CHÍNH NGHĨA.
* - Hướng về Cội Nguồn, trở về Cội Nguồn, hội nhập Cội Nguồn. Tiểu Linh Hồn hội nhập Đại Linh Hồn, bọt nước hội nhập nước, thức tâm thức tánh hội nhập chân tâm chân tánh, vào cảnh giới thật tướng thật tánh vũ trụ, như như ĐẠI ĐỒNG BÌNH ĐẲNG.
* - HIỆN THÂN TOÀN NĂNG TOÀN GIÁC, lập ra vô lượng vô biên phương tiện, tùy bệnh cắt thuốc, Độ tận chúng sinh đồng thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
9 - Sự hiện thân của ĐỨC KHAI HÓA TỔ TIÊN, thành ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU, không những lưu truyền thể xác con người, thể xác TIỂU THIÊN VŨ TRỤ, để cho Tiểu Linh Hồn tiến hóa ý thức nhận thức đỉnh cao tiến tới làm chủ vận mệnh, làm chủ vũ trụ. Mà còn làm theo di chí thiên ý của ĐỨC CHA TRỜI, Sự hiện thân của tổ tiên lưu truyền loài người có nhiều mục đích như đã nói trên.
10 - Điều đáng nói ở đây, TỔ TIÊN hiện thân ra đức CHA TRỜI, MẸ TRỜI, bằng cách nào, khi bản thể pháp thân Linh Giác Tổ Tiên là pháp thân linh giác Vô Vi không có tướng hình. Để hiểu rõ điều đó chúng ta xem những lời kinh sau đây.
11 - TỔ TIÊN muốn hiện thân ra Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu Mẹ Trời. Tổ Tiên phải dùng đến ý niệm Thần Thông qua thần lực. Tóm thâu, tiên thiên chơn dương tinh hoa vũ trụ, giống như lực nam châm hút lấy, sắt, thép, kẽm, chì, mà không cần dùng đến tay, chân, gì cả, TỔ TIÊN dùng ý niệm Thần Thông qua thần lực, tóm thâu tiên thiên CHƠN DƯƠNG tinh hoa vũ trụ, hiện thân ra Đức Cha Trời 32 Tướng tốt 80 vẻ đẹp cốt Rồng hào quang rực rỡ.
12 - TỔ TIÊN lại tiếp tục dùng ý niệm tóm thâu tiên thiên CHƠN ÂM, tinh hoa vũ trụ, hiện thân ra Đức Mẹ Trời, Địa Mẫu 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp cốt Tiên hào quang rực rỡ.
13 - Sự hiện thân của TỔ TIÊN, làm cho không gian bỗng sáng rực, như báo hiệu ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU xuất hiện ra đời, chuẩn bị cho cuộc hành trình sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người.
14 - Và đúng thế từ nơi hư không vũ trụ hai đấng TIÊN RỒNG CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, cùng bay xuống quả địa cầu Nam Thiện Bộ Châu làm nơi sanh con đẻ cái. CHA TRỜI, MẸ TRỜI từ từ hạ chân xuống dãy núi Long Hoa, Địa Long trái đất, làm cho quả địa cầu rung động mạnh chim muôn vạn thú kinh hoàng hoảng sợ không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trên bầu trời mây thường biến mất mây ngũ sắc xuất hiện lũ lượt kéo đến, hư không vốn rực rỡ bởi hào quang của Cha Trời Mẹ Trời, giờ lại thêm mây ngũ sắc trùng trùng kéo đến chầu Đức Cha Trời, Mẹ Trời, làm cho quan cảnh không gian vốn đã rực rỡ lại càng thêm rực rỡ, dưới mặt đất những cây cối khô héo lâu ngày bỗng đâm chồi nảy lộc đơm hoa kết trái, khắp nơi khắp chốn khắp địa cầu năm châu bốn biển, muôn màu muôn sắc thi nhau đua nở, xuân trời xuân đất, xuân sự sống trỗi lên lời ca bất tử, sông suối những nơi khô cạn nguồn mạch trở nên sung túc róc rách tuôn ra thấm nhuần mặt đất, bầu trời mát mẻ trong xanh, nhật, nguyệt, tinh tú, thi nhau tỏa sáng, dưới đất trên không PHỤNG HOÀNG nhảy múa, RỒNG THIÊN uốn khúc múa đầu, múa bụng, ngúc ngoắc múa đuôi, 8 muôn 4 nghìn loài đua nhau vào vũ hội, tiếng hát ca vang động chín tầng mây.
15 - Muôn đạo hào quang rực rỡ phát tỏa ra từ Cha Trời, Mẹ Trời, mang theo mùi hương thơm ngát, muôn loài vạn vật, bò sát, cầm, thú, khắp nơi khắp chốn, hít lấy hương trời thì không còn đói khát, linh hồn phấn chấn, thể xác nhẹ bổng như muốn bay lên cõi hư không.
16 - Dãy núi Long Hoa giờ đây chuyển mình khác hẳn kể từ khi Cha Trời, Mẹ Trời đáp xuống dãy núi Long Hoa. Với thân hình to lớn Cha Trời, Mẹ Trời, đáp xuống dãy núi Long Hoa làm cho quả địa cầu rung rinh chấn động mạnh. Chim muôn vạn thú vô cùng hoảng sợ, Cha Trời, Mẹ Trời, liền thâu nhỏ thân hình lại chỉ còn độ vài ba mươi trượng mà thôi.
17 - Để sanh ra con cái nhân loại trần gian, Mẹ Trời ĐỊA MẪU ÂU CƠ, liền gồm thâu khí ngũ địa, KIM MỘC – THỦY – HỎA – THỔ, luân chuyển bốn phương ĐÔNG, TÂY, NAM, BẮC, TRUNG ƯƠNG và THỔ KHÍ LINH CỐT. Nằm sâu dưới dãy núi Long Hoa. Tạo thành phôi thai, trăm trứng, cùng chung trong một bọc, trong bụng mẹ ĐỊA MẪU ÂU CƠ, hai chữ ĐỒNG BÀO cũng từ đây ra đời.
18 - Dãy núi LONG HOA, hình rồng dãy núi của sự hội tụ tinh hoa trời đất, hàng triệu triệu năm, VÔ CỰC, THÁI CỰC, LƯỠNG NGHI, ÂM, DƯƠNG, gồm đủ TỨ TƯỢNG ứng đầy, BÁT QUÁI chuyển xây, NGŨ HÀNH, ĐỊA CHI không thiếu, MỘT TRĂM CHI KHÍ, trấn khắp ngũ phương ĐÔNG, TÂY, NAM. BẮC, TRUNG ƯƠNG, THƯỢNG HẠ
19 - ĐỊA MẪU ÂU CƠ, tóm thâu tinh hoa trăm chi khí ngũ địa khắp địa cầu, cũng như tinh hoa khí ngũ địa của dãy núi Long Hoa, kết thành phôi thai trăm trứng, trong một bọc lớn, BỌC ÂU CƠ, ứng hiệp năm màu da khác nhau.
KIM trứng da bọc TRẮNG.
MỘC trứng da bọc CHÀM.
THỦY trứng da bọc ĐEN.
HỎA trứng da bọc ĐỎ.
THỔ trứng da bọc VÀNG.
20 - Sự hình thành phôi thai, dưỡng nuôi BÀO THAI phải trải qua một thời gian khá lâu theo luật tự nhiên ở vào giai đoạn đỉnh cao của tuổi thọ, giữa tiểu kiếp thứ năm.
21 - Con người sanh ra trung bình thọ 60 nghìn tuổi, thọ 80 nghìn tuổi, yểu 40 nghìn tuổi, đại thọ 100 nghìn tuổi.
22 - Nên ĐỨC MẸ ÂU CƠ phải mang thai đến 9 năm 9 tháng 10 ngày thì mới khai hoa nở nhị sanh con đẻ cái.
23 - Biết mình không còn bao lâu nữa là đến ngày khai hoa nở nhị sanh con đẻ cái, nhân loại con người trần gian ra đời, ĐỊA MẪU ÂU CƠ MẸ TRỜI, nói với ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI rằng: Nầy Ông, giờ thì đến lượt ông. Ông hãy gọi muôn loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, đến để chúng nó đầu thai làm con người, làm con của chúng ta.
24 - ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, nghe ĐỊA MẪU ÂU CƠ nó thế tức thời từ nơi cửa miệng LONG HOA CHA TRỜI, trùng trùng điệp điệp lớp lớp hào quang tua tủa phóng ra, không những vô cùng đẹp mắt mà phát ra vô lượng vô biên âm thanh vi diệu, truyền xa đến tận chân trời góc bể, hang cùng ngõ hẻm khắp quả địa cầu.
25 - Chim muông, vạn thú, bò sát, những con chúa tể đầu đàn, nghe được âm thanh vi diệu ấy, liền cấp tốc Lên đường đến nơi Cha Trời đang gọi.
26 - Lúc bấy giờ - trên không trung, trung tâm dãy núi Long Hoa, xa gần lớp lớp mây ngũ sắc, biến thành vô số vô biên cây báu khổng lồ, đất đai bằng phẳng, Các loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, ở khắp mặt địa cầu, loài ở động ở hang, loài ở rừng ở núi, loài ở cây ở đất, loài ở sông ở biển, loài ở tuyết ở lửa, những con đầu đàn chúa tể, thi nhau bay đến dãy núi Long Hoa rợp trời rợp đất, chúng bay đến chỗ CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, lớp hạ xuống mặt đất báu, lớp trên cây báu, lớp ở trên không, đông vô số, nhiều vô biên không thể tính đếm không thể luận bàn cho hết được. Các chúa tể của các loài BÒ SÁT, CẦM, THÚ, hầu hết đều có pháp thuật thần thông, nhìn thấy hai đấng TIÊN RỒNG, không những thân hình vô cùng cao lớn, hào quang rực rỡ, xinh đẹp hiền lành càng nhìn càng ưa càng mến, có con bạo dạng đến gần để nhìn cho rõ.
27 - Nhất là loài RỒNG, loài PHỤNG, loài KHỔNG TƯỚC, loài KỲ LÂN, loài VOI, loài HỔ – SƯ TỬ, loài NGỰA, TRÂU, DÊ, CHÓ, MÈO...
28 - ĐỊA MẪU ÂU CƠ, thấy chúa tể của muôn loài đến đông đủ, tức thời toàn thân của Địa Mẫu Âu Cơ Mẹ Trời lan tỏa vô lượng mùi hương tuôn ra cùng khắp, muôn loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, chỉ cần hít vào một ít không những hết đói khát cả tháng cả năm, thần lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn, mà linh hồn cũng minh mẫn sáng suốt lạ thường nhạy cảm vô biên.
29 - ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, thấy chúng nó đã hít, HUỆ HƯƠNG, TRÍ HƯƠNG, GIÁC HƯƠNG, GIỚI HƯƠNG, ĐỊNH HƯƠNG, THIỆN HƯƠNG, DŨNG HƯƠNG, TÍN HƯƠNG, NGHĨA HƯƠNG, HIẾU HƯƠNG, TRUNG HƯƠNG, LỄ HƯƠNG, TẤN HƯƠNG, NHẪN HƯƠNG, NHỊN HƯƠNG, NHỤC HƯƠNG, HỈ HƯƠNG, XÃ HƯƠNG, BI HƯƠNG, ĐỨC HƯƠNG, LẠC HƯƠNG, KHIÊM HƯƠNG, HÒA HƯƠNG, AN HƯƠNG. Từ pháp thân Địa Mẫu phát ra, 8 muôn 4 nghìn hương tánh tạng đức, diệu dụng nói sao cho hết nói sao cho cùng, tức thời từ trong miệng ĐỨC CHA TRỜI phát ra trăm nghìn muôn ức hào quang phát ra vô lượng âm thanh khác nhau, cùng một lúc thuyết giáo nói chuyện với muôn nghìn chủng loại CẦM THÚ, BÒ SÁT, khai ngộ ý thức nhận thức của chúng, làm cho ý thức nhận thức của chúng tiến hóa nhanh chóng rút ngắn thời gian tiến hóa tu luyện, hơn muôn vạn ức kiếp như số vi trần. Chỉ có CHA TRỜI, MẸ TRỜI mới làm nổi việc đó, còn tất cả PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, không ai có thể làm được.
Khám phá bị mật về Cội Nguồn chủ nghĩa Đại Đồng bí ẩn của Tạo Hóa. Chỉ cần xem qua một phần, thì cũng đã tiêu tan tai họa. Trí huệ khai mở chuyển đổi số mạng các bạn và may mắn sẽ đến với các bạn, những chuyện lạ xảy ra trong cuộc đời bạn, nếu bạn đầy đủ đức tin.
Hết phần 5 chương 1
Mời các bạn xem tiếp phần 1 chương 2
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
-
CHƯƠNG 2
PHẦN 1
LỜI TRUYỀN DẠY CỦA ĐỨC CHA TRỜI
1 - Hỡi các loài chúa tể các loài CẦM, THÚ, các loài BÒ SÁT, Ta đây là ĐẤNG CHÚA VŨ TRỤ, Đấng Chúa Trời, đấng tạo lập lên tất cả, nay ta gọi các ngươi đến đây, là để nói rõ các ngươi từ đâu có ra, để các ngươi hiểu các ngươi biết đường về, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh ngu si khốn khổ, đần độn đọa đày triền miên không biết đến bao giờ mới hết có thể nói là mãi mãi.
2 - Khi xưa ta khai hóa tạo lập tứ đại vũ trụ tạo ra LỰC, KHÍ, NƯỚC, ĐẤT, chuyển vận khai tạo lục đại: lực, khí, đất, nước, gió, lửa.
3 - Khai tạo thành lập tam thiên đại thiên thế giới, ba cõi vật chất, CÁC TẦNG TRỜI, bốn cõi TRẦN GIAN, CÁC TẦNG ĐỊA PHỦ, ba giới LINH HỒN là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Khi ta khai tạo ra thiên hà, ngân hà, nhật nguyệt tinh tú, thì ta đã kiệt sức, đi vào giấc ngủ say, nên bản thể LINH GIÁC CỦA TA VÀO CẢNH GIỚI VÔ MINH. Có nghĩa là ta đã quên hết theo giấc ngủ say chỉ còn bốn đức tánh tự nhiên, Thấy – Nghe – Hay – Biết khắp cùng.
4 - Ta có cái tánh đặc biệt, khi Ta thức thì bản thể pháp thân linh giác của Ta tự nó QUANG MINH, nhưng khi Ta đi vào giấc ngủ vô thức thì tự nó VÔ MINH, nhưng bốn đức tánh Thấy – Nghe – Hay – Biết vẫn còn. Và chính sự vô minh nầy cộng với cái tánh thấy nghe hay biết của Ta, phản tỉnh trực giác khởi sanh Linh Thức Vô Minh xâm nhập vào thế giới vật chất, bám lấy vật chất, khởi niệm tạo ra ý niệm di căn tính chất, ưa ái mến thích tạo ra bản chất di truyền, từ đó sự sống rong rêu ra đời, thu hút tinh hoa tứ đại vật chất vũ trụ, kết tinh sự sống, tiến hóa lên loài cỏ cây, thu hút tinh hoa trời đất, kết hoa kết trái, TINH, KHÍ, THẦN hiệp nhất kết cấu chuyển hóa, tạo ra sự sống vi khuẩn vi trùng, tiến hóa lên CÔN TRÙNG, tiến hóa lên BÒ SÁT, CẦM, THÚ, linh thức vô minh ấy chính là linh hồn các ngươi bây giờ. Và đến đây Linh Hồn các ngươi không còn tiến hóa được nữa, vì thân xác của các ngươi chỉ xác thân xác. Bò sát, cầm, thú, thân xác tầm thường kết cấu não bộ tầm thường, không thể nào tiến hóa lên cao được nữa, mà phải đổi xác, chuyển hồn xác người hồn người, cuộc sống đứng thẳng, rời bỏ xác thú hồn thú, bốn chân, hai cẳng cuộc sống thân ngang, xác thân con người thân xác TIỂU THIÊN VŨ TRỤ, vũ trụ thu nhỏ, tương thông hết thảy trời đất vạn vật vũ trụ, khối óc con người giúp cho linh hồn con người tiến hóa ý thức nhận thức nhanh chóng tìm ra Cội Nguồn của chính mình.
5 - Các ngươi nên biết, ta là Đại Linh Hồn, còn các ngươi là Tiểu Linh Hồn, tiểu linh hồn từ đại linh hồn khởi sanh ra. Đại Linh Hồn của Ta trường sanh bất tử không bao giờ mất đi. Vũ Trụ nầy mất đi Ta lập lên vũ trụ mới. Và Ta đã lập lên vô số vô biên vũ trụ như thế nhưng Đại Linh Hồn Ta vẫn còn sờ sờ. Tiểu Linh Hồn các ngươi cũng vậy trường sanh bất tử không bao giờ mất đi. Vì tiểu linh hồn các ngươi cũng chính là Đại Linh Hồn của Ta. Ví như Nước tạo ra Bọt nước. Bọt nước cùng Nước không khác nhau. Nhưng khác nhau Linh Hồn của Ta là LINH GIÁC. Linh Hồn của các ngươi là LINH THỨC. Tuy linh hồn các ngươi đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp sanh tử, vũ trụ nầy mất đi vũ trụ khác sanh ra nhưng linh hồn các ngươi vẫn không hề thay đổi, không cấu nhiễm vật chất trước sau vẫn trong sạch, chỉ vì vô minh che lấp Cái Biết các ngươi nên không nhận ra Linh Thức Vô Vi các ngươi đó thôi. Tiểu Linh Hồn các ngươi khởi sanh ra từ Đại Linh Hồn của ta, nhưng tiểu linh hồn các ngươi không hề biết được điều đó, bởi gì linh hồn các ngươi sanh ra mang theo VÔ MINH đang say ngủ ấy của ta Linh Thức Vô Minh. Nên linh hồn các ngươi không những mê muội mà con ngu si đần độn, cũng bởi cái tánh mê muội ngu si đần độn nầy, dẫn dắt các ngươi lạc vào con đường cấu xé ăn nuốt lẫn nhau và mãi mãi sống trong kinh hãi, khốn khổ, dục vọng điên cuồng. Không những các ngươi khốn khổ trong cuộc sống sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, mà còn khốn khổ trong sanh tử luân hồi đọa lạc hết loài nầy sang loài khác, luân hồi khắp nẻo, khắp nơi khắp chốn. Vô tận vô biên vũ trụ nầy hủy hoại vũ trụ khác ra đời các ngươi vẫn tiếp tục đọa lạc mãi mãi trong khốn khổ.
6 - Không những thế các ngươi lại phải khốn khổ trước sức mạnh vũ trụ, cũng như sự luân chuyển tiến hóa vũ trụ, Tiểu Linh Hồn các ngươi ví như là BỌT NƯỚC, đại linh hồn của ta ví như là NƯỚC, Nước và Bọt nước như CHA với CON, NAM với MÔ, THÁNH với THẦN, A với MEN TUY HAI MÀ MỘT, TUY MỘT MÀ HAI. Đồng bản thể, đồng tánh thể, chỉ khác ở Bọt nước và Nước, Linh Giác và Linh Thức, Chân Tánh và Thức Tánh mà thôi.
7 - Các ngươi nên biết, NƯỚC KHÔNG xa rời BỌT NƯỚC, ĐẠI LINH HỒN không xa rời TIỂU LINH HỒN, các ngươi nghĩ gì, làm gì Ta đều thấy rõ, các ngươi khốn khổ ta cũng chẳng vui chi, linh hồn các ngươi đang sanh sống trong bản thể linh giác vũ trụ. Đại linh hồn của ta, như loài cá sống trong biển ĐẠI DƯƠNG, cá nghĩ gì, cá làm gì, thì đại dương thấy nghe, hay, biết, rõ ràng dù đó là việc làm mảy lông sợi tóc của cá, các ngươi cũng thế, các ngươi nghĩ gì làm gì, dù là mảy lông sợi tóc, dù là trải qua vô lượng vô biên số kiếp, ta vẫn THẤY, vẫn NGHE, vẫn HAY, vẫn BIẾT rõ ràng. Thân xác của các ngươi chỉ là thân xác, cầm, thú, bò sát, đã thấp kém, mà não bộ cũng thấp kém, không còn tiến hóa lên được nữa, mà linh hồn các ngươi cũng chỉ là linh hồn cầm, thú, bò sát, linh hồn ngu si đần độn ăn nuốt lẫn nhau khổ mãi không ngừng.
8 - Các ngươi nên nhân cơ hội nầy, xả bỏ thân xác cầm, thú, bò sát, linh hồn đầu thai vào loài Người, làm con của Ta, con của TRỜI, không những các ngươi có một thể xác cao cấp, thể xác tiểu thiên vũ trụ, bộ não tiểu thiên vũ trụ, linh hồn cầm, thú, bò sát, đã trở thành linh hồn con Người.
9 - Khi các ngươi đã là con của Ta, không những linh hồn các ngươi tiến hóa ý thức, nhận thức nhanh chóng, trí huệ vô tận vô biên, nhờ vào thân xác con Người, các ngươi trở nên khôn ngoan hơn muôn loài Cầm Thú, Bò Sát, sức mạnh con Người chính là sự khôn ngoan nầy các loài bò sát, cầm thú không thể nào theo kịp. Các ngươi sẽ thống soái muôn loài vạn vật, tiến tới làm chủ vận mệnh, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ. Không những các ngươi thoát khỏi loài thú, cầm, bò sát, mà con thoát khỏi sự ngu si đần độn, làm con của Ta, dòng giống TIÊN RỒNG, dòng giống uy linh tối thượng. Các ngươi sẽ trở thành Phật, Thánh, Tiên Thần, Chúa. Các ngươi sẽ thay ta trông coi vũ trụ, tạo lập lên các cõi THIÊN ĐÀNG CỰC LẠC, giàu sang hạnh phúc sống mãi không chết, thoát khỏi sanh già bệnh tử, để phân biệt thứ ngôi loài nào đầu thai trước thì loài đó làm đàn anh thường đứng đầu nhân loại con người.
10 - Loài nào đầu thai trước, loài đó sẽ ở ngôi vị CHÍ TÔN làm anh cả con trời, và tiếp theo ngôi vị trước sau phân theo thứ lớp.
Hết phần 1 chương 2
Mời các bạn xem tiếp phần 2 chương 2
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 2
PHẦN 2
ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI
1 - Khi ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, thuyết giáo xong liền có 100 linh hồn là những chúa tể đứng đầu CẦM, THÚ, BÒ SÁT, nhanh chóng xả bỏ thân xác LINH HỒN liền đầu thai làm người làm con của ĐỨC CHA TRỜI, ĐỊA MẪU trong bọc trứng ÂU CƠ, dòng giống TIÊN RỒNG, uy linh tột thế.
2 - CHÚA TỂ CỦA nhiều LOÀI RỒNG, xả bỏ thân xác nhanh chóng đầu thai trước nhất, ở ngôi số 1. Kế đến là chúa tể của nhiều loài PHỤNG HOÀNG, đầu thai ở ngôi số 2. Kế đến nữa là Chúa tể nhiều loài KỲ LÂN, KHỔNG TƯỚC đầu thai ở ngôi Số 3. Kế đến là Chúa tể của các loài VOI, CHIM ĐIÊU, ĐẠI BÀNG, HỔ, SƯ TỬ đầu thai ở ngôi số 4. Rồi đến Chúa tể của các loài NGỰA TRÂU, CHÓ, MÈO, RẮN, KHỈ, HEO, GÀ đầu thai ở ngôi số 5…
3 - Chỉ riêng Chúa Tể của ba con Quỷ không phải CẦM, không phải THÚ, thứ nhất đó là loài CHỒN CÁO có cánh chín đuôi. Chúng đa nghi xảo hoạt, giả dối, tự kiêu, tự đại, bản tánh trộm, cướp, lén lút, lối sống nửa tối, nửa sáng, nói một đàng làm một nẻo, nên chúng nghi ngờ lời thuyết giáo của Đức Cha Trời, nên HỒ TINH Chúa Quỷ đã bỏ lỡ cơ hội làm con của Đức Cha Trời.
4 - Thứ Hai, Chúa Tể loài THUỒNG LUỒNG có cánh chín đầu không phải Cầm, không phải Thú, không phải Cá, tánh hung dữ, đa nghi, mưu mẹo, ác độc, háo chiến, háo sát, chúng hủy diệt cả họ hàng tổ tông của chúng, lối sống vừa ở dưới nước, vừa ở trên khô, thích nửa tối nửa sáng, cướp công săn mồi, nói một đàng làm một nẻo, với bản tánh như thế chúng không tin lời truyền dạy của Đức Cha Trời, nên NGƯ TINH Chúa Quỷ đã bỏ lỡ cơ hội làm con của Đức Cha Trời.
5 - Thứ Ba, Chúa tể của cây, loài CÂY biết bay, loài cây ăn thịt, loài cây nầy chuyên tiết ra mùi hương lạ dụ các loài động vật đến kể cả các loài cầm thú to lớn cũng bị Mộc Chúa Quỉ ăn thịt, bản tánh Chúa Tể Mộc Tinh gian xảo luôn nắm bắt thời cơ, hiểu rõ con mồi thích gì, tiết ra mùi hương để dụ làm cho con mồi mắc lừa làm mồi cho quỉ nuốt. Quả là loài cây vô cùng lợi hại vì thường phỉnh gạt dụ dỗ như thế. Mộc quỉ không tin lời truyền dạy của Đức Cha Trời, nên MỘC TINH Chúa Quỷ bỏ lỡ cơ hội đầu thai làm người làm con của Trời.
6 - Ba con Chúa Quỷ. Chúng cũng được CHA TRỜI gọi đến, nhưng chúng cao ngạo, chúng không tin những gì Cha Trời truyền dạy, chúng đến để thực hiện mưu đồ bất chính. Hưởng lợi từ hai phía, cha trời và cầm thú bò sát, không những chúng xem thường con người, mà còn tỏ thái độ ganh ghét, sự uy nghi cao sang uy lực của ĐỨC CHA TRỜI, MẸ TRỜI.
7 - ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU, tuy biết thế, nhưng cũng để yên cho chúng, không phê phán hay quở phạt gì, mà nghĩ chúng là kẻ có lợi cho sự tu luyện con cái nhà trời, sự tôi luyện cần phải có lửa, muốn thành chính quả phải có sự khảo đảo của ÁC QUỈ, ÁC MA, muốn tu luyện mau thành chánh quả, phải nhờ cái ác khảo đảo, tôi luyện, phản tỉnh, có đại ác thì mới thấy đại thiện, ngán ngẩm cái xấu thì mới quý cái tốt, đọa đày khốn khổ thì mới tìm sự giải thoát đến với cái vui, muốn có cõi thiên đàng cực lạc phải thoát ra từ cõi địa ngục, những kẻ đại ác thường là đại ân nhân của những người đã đạt đến chính quả, vì đạt đến chính quả nên đã tha thứ cho những kẻ đại ác.
8 - Vì hiểu thế nên ĐỨC CHA TRỜI không quở phạt Chúng, mà còn nói, này ba con Tinh Quỷ HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, vũ trụ CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG CÔNG MINH, nếu các ngươi thắng được Lẽ Phải, thắng được Công Lý Chính Nghĩa, thắng được các Con của ta, thì các ngươi có quyền làm chủ vũ trụ.
9 - Ba con Quỷ nghe Đức Cha Trời phán thế, chúng không những không cảm ơn mà còn cao ngạo phóng lên không trung đầy thách thức kêu căn ngạo mạng. Như nói rằng hai ngươi nhớ mà giữ lời. Cha Trời thấy thế liền nở nụ cười đầy bí hiểm, khó ai hiểu được thâm ý của Trời, bí mật mãi mãi là bí mật.
10 - Từ khi chúa tể của các loài, cầm, thú, bò sát, đầu thai vào bụng mẹ địa mẫu ÂU CƠ, để được làm người, làm con trời, mang dòng máu TIÊN RỒNG, phải trải qua chín năm, chín tháng, mười ngày nữa mới chào đời.
11 - Trong thời gian ấy Địa Mẫu Âu Cơ, luôn luôn thu hút tinh hoa khí hóa THIÊN ĐỊA nuôi con từng ngày, từng giờ trong bụng, để có được con người bằng xương bằng thịt, lưu truyền nòi giống sau nầy, Mẹ Âu Cơ với bao công lao khó nhọc nuôi con trong bụng, theo định luật phát triển tiến hóa tự nhiên, mang thai, nuôi thai, dưỡng thai, vô cùng kham khổ, với công lao ấy con cháu TIÊN RỒNG không lấy gì đền đáp nổi.
12 - Địa mẫu ÂU CƠ mang thai sanh con theo quy luật tự nhiên của phàm trần, thì những người con của địa mẫu Âu Cơ, mới ở lại sống được nơi chốn nhân gian sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, dòng giống Rồng Tiên.
13 - Một thứ khổ mà tất cả người mẹ sau nầy đều trải qua đó là khổ mang thai, khổ nuôi con trong bụng, khổ sanh con, khổ nuôi con khi còn nhỏ, mà Đức Mẹ Trời ÂU CƠ Chánh Thân Chánh Mẫu đã trải qua.
14 - Thật ra mà nói với pháp thuật thần thông vô biên, ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU, thì cần gì sanh con đẻ cái lâu như vậy, Chỉ cần nháy mắt là tạo ra hàng loạt con người, nhưng những con người đó chỉ là con người bằng pháp thuật thần thông, không phải con người trần tục sanh, lão, bệnh, tử, ăn uống, đói khát. Theo quy Luật tự nhiên, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, chịu kham chịu khổ tu luyện tiến hóa linh hồn, lối sống có nhân có quả, gieo ác gặt ác, gieo thiện gặt thiện, tiến hóa lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA. Thay Cha Mẹ Trời làm chủ vũ trụ.
15 - Vì vậy để khai tạo ra con người phàm tục, sống chung với muôn loài vạn vật, để cho muôn loài vạn vật có cơ hội đầu thai làm người. Nên ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ, phải theo quy luật tự nhiên, khổ mang thai, khổ nuôi thai, khổ sanh con, khổ nuôi con, cái khổ của người mẹ, mà ĐỨC MẸ ÂU CƠ là người mẹ Chánh Thân Chánh Mẫu đầu tiên chịu sự khổ đó.
16 - ĐỨC MẸ ÂU CƠ, mang thai nhân loại đã trải qua chín năm, chín tháng, mười ngày đã biết sắp đến giờ khai hoa nở nhị sanh con đẻ cái, bằng nói với ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI rằng, giờ sanh con đã đến ông hãy ban cho con cái lời nguyền hồng phúc đi.
17 - ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, nhìn về vũ trụ giang san rộng lớn vô tận vô biên của mình, chưa có người trông coi, cũng như sự sáng tạo dựng xây cho thêm đẹp, lập lên thế giới thiên đàng cực lạc, cõi nước châu báu trang nghiêm. ĐỨC CHA TRỜI lại nghĩ rằng ta là hiện thân của Đức Tổ Tiên, đấng tối cao vũ trụ, ĐẤNG CHÚA CỦA LINH HỒN, và VẬT CHẤT, ta cũng cần có người để kế nghiệp, đó chính là con cái của ta thay thế ta làm chủ vũ trụ.
18 - ĐỨC CHA TRỜI lại nghĩ, pháp thân linh giác ta vô cùng linh diệu, bản thể linh giác tối cao cội nguồn vũ trụ, pháp tạng ĐẠI ĐỒNG, CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, ta cần có người duy trì CÔNG ĐẠO VŨ TRỤ, đem lại sự công bằng, bình đẳng cho cuộc sống, nên Đức Cha Trời truyền phán rằng.
19 - Nầy hỡi các con của Ta, khi các con chào đời sẽ vang tiếng sấm lớn, tiếng sấm trí tuệ, tiếng sấm uy quyền, tiếng sấm chúa tể, tiếng sấm làm chủ muôn loài vạn vật, tiếng sấm làm chủ vận mệnh, tiếng sấm làm chủ vũ trụ, ánh sáng trí huệ các con sáng khắp hư không vũ trụ, không chướng ngại, sáng hơn tất cả ánh sáng của muôn vạn mặt trời, sáng hơn hào quang của Ta.
20 - Các con sẽ trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, làm chủ HIẾN TẠNG, LUẬT TẠNG, PHÁP TẠNG, MẬT TẠNG, THIÊN TẠNG. Vào năm ngôi báu của Ta, ngôi vị THẾ TÔN, ngôi vị CHÍ TÔN. Vào 10 ngôi tối cao VŨ TRỤ, ngôi vị THẾ TÔN PHẬT TỔ, THẾ TÔN THÁNH TỔ, THẾ TÔN TIÊN TỔ, THẾ TÔN THẦN TỔ, THẾ TÔN CHÚA TỔ, CHÍ TÔN PHẬT TỔ, CHÍ TÔN THÁNH TỔ, CHÍ TÔN TIÊN TỔ, CHÍ TÔN THẦN TỔ, CHÍ TÔN CHÚA TỔ. Thay thế Ta chuyển pháp luân vũ trụ tận độ sanh linh. Ta ban cho các con quyền sáng tạo, các con sáng lập lên các cõi nước trời, thiên đàng cực lạc quốc làm cho vũ trụ, cũng như tam thiên, đại thiên thế giới, mỗi ngày mỗi thêm rực rỡ trang nghiêm hơn.
21 - Lời nguyền của ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI vừa dứt, vũ trụ hư không tức thời rung chuyển ĐỊA MẪU ÂU CƠ chuyển dạ sanh ra MỘT BỌC to lớn khổng lồ, sau đó là một tiếng nổ kinh thiên động địa chấn động toàn vũ trụ, (tiếng sấm Đại Đồng bình đẳng) kế tiếp theo là một trăm tiếng sấm làm chấn động liên miên vũ trụ (tiếng sấm Nhân Quyền con người) (tiếng sấm Thiên Quyền con người) những quyền bất khả xâm phạm. Một trăm tiếng nổ tưởng chừng như vũ trụ đã đến hồi sụp đổ, như báo hiệu cho tất cả muôn loài vạn vật biết là nhân loại con người đã ra đời, thay thế Cha Ông làm chủ vũ trụ, cai quản thế giới vật chất, cũng như thế giới linh hồn, kế thừa gìn giữ cơ nghiệp Ông Cha.
22 - Các loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, ở khắp trên mặt quả địa cầu vô cùng hoảng sợ, khiếp đảm khi nghe tiếng sấm vang dậy liên miên nối tiếp nhau chấn động không gian vũ trụ rung chuyển cả đất trời. Chúng linh cảm là từ đây chúng sẽ bị con người cai trị, quản thúc, mà còn sát phạt chúng khi chúng chống lại, chúng thấy muôn đạo hào quang tua tủa rực rỡ, trùng trùng điệp điệp tỏa lên từ khúc giữa đỉnh Dãy núi Long Hoa, mỗi lúc một dữ dội âm thanh sấm nổ cứ vang rền mãi không dứt.
23 - Nhất là ba con Chúa Quỉ linh hồn chúng hoảng loạn run sợ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra chúng liền bay lên không trung bay đến đỉnh núi Long Hoa nơi mà chúng gặp Đức Cha Trời, Mẹ Trời hơn 9 năm về trước. Chúng hết sức kinh hoàng vì chúng thấy một trăm người con của Đức Cha Trời đã ra đời, giống Cha Trời, Mẹ Trời như đúc CỐT RỒNG CỐT TIÊN, uy dũng xinh đẹp vô cùng. Những tia hào quang phóng tỏa ra từ 100 người con của Đức Cha Trời, Mẹ Trời làm chúng đau đớn vô cùng như hàng vạn mũi kim đâm vào tim chúng. Chúng thất kinh khiếp vía ẩn mình trốn thoát, không dám quay đầu nhìn lại nữa, chúng chạy mãi chạy mãi cho đến khi kiệt sức mới thôi, ngạo mạn bao nhiêu thì khiếp sợ bấy nhiêu.
24 - Khi ấy hai dòng sữa của ĐỨC MẸ ÂU CƠ tuôn chảy ra bay lên hư không lan tỏa khắp mặt địa cầu hóa thành những hạt giống NGŨ CỐC rớt xuống mặt địa cầu rồi mọc lên ngũ cốc, nhất là nhiều giống lúa, giống ngô, nhiều giống củ xanh tốt lan nhanh khắp cùng mặt đất. Ngũ cốc dòng sữa Mẹ ra đời khi con người đi đến đâu thì nhờ dòng sữa MẸ để sanh sống.
Trên con đường chinh phục khám phá bí mật Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ. Chỉ cần các bạn ca ngợi một câu. Thì cũng đã tiêu tan vô lượng tội lỗi, được Cha Trời, Mẹ Trời luôn luôn che chở phù hộ. Phải nói là thường cầu chi đặng nấy. Huống chi là biên chép ấn in, truyền bá cho nhân loại con người, phải nói là công đức vô tận. Nhất định các bạn sẽ siêu sanh về thượng giới, sống mãi trong cõi vĩnh hằng. Nếu các bạn giảng giải cho người hiểu rõ lời kinh chỉ dạy thời các bạn sẽ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa không sai NAM MÔ A MEN.
Hết phần 2 chương 2
Mời các bạn xem tiếp phần 3 chương 2
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 2
PHẦN 3
DI DỜI CON CÁI XUỐNG ĐỒNG BẰNG CHÂN NÚI PHÍA BẮC, BẢO TỒN SỰ SỐNG CHO CON
1 - Đức Long Hoa Cha Trời, cùng Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ nuôi con trải qua một thời gian dài một hôm Cha Trời nói với Đức Địa Mẫu Âu Cơ rằng. Này bà, không bao lâu nữa dãy núi Long Hoa sẽ bị sụp. Vì chúng Ta đã gồm thâu hết tinh hoa linh khí của dãy núi nhất là Linh Cốt Địa Long của dãy núi, làm cho dãy núi không còn đủ sức chịu đựng chống trả khi động Đất. Sự chuyển bụng của Bà, Cũng như tiếng sấm ra đời của trăm người con đã gây ra chấn động lục địa chuyển động trong lòng địa cầu, nên dãy núi Long Hoa sẽ sụp xuống hơn phân nửa, chỉ còn phần chót núi trở lên. Nhưng đó là nói hiện nay, còn nói về sau lâu xa hơn nữa, đất đai ở phương đông nầy động đất dữ dội nhất là càng về cuối tiểu kiếp, tứ đại chuyển hóa tăng giảm giãn nở co bóp làm cho địa cầu thay đổi lục địa, dãy núi Long Hoa cùng chung số phận, tiếp tục sụp xuống chỉ còn lại những đỉnh núi, tạo thành những dãy núi mà thôi, sự sụp đổ nầy, nửa phần của dãy núi chạy dài về nam nặng hơn là nửa phần chạy dài về bắc, vì thế chân núi phía nam phần lớn đất đai ngập chìm trong nước, nên phải chọn chân núi phía bắc làm nơi sinh sống của các con.
2 - ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI nói xong liền phất tay một cái một đám mây ngũ sắc hiện ra nân 100 người con bay lên không trung theo cha mẹ bay về chân núi phương bắc (chân núi phía bắc của dãy núi Long Hoa. Tức là địa phận hầu hết Giang Nam lãnh nam Trung Quốc giáp liền với sông trường giang. Cũng chính là nước Xích Quỷ. Chín đời Kinh Dương Vương. Niên đại Kinh Dương Vương kéo dài mấy nghìn năm. Đến đời Kinh Dương Vương đời thứ 9 húy hiệu Lộc Tục. Cha đẻ Quốc Tổ Hùng Vương (xem Kinh Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nước Xích Quỷ là một đất nước không chỉ giàu có mà giàu có nhất thời bấy giờ. Mà còn hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Sự giàu có ấy phần lớn là nhờ nền văn minh lúa nước từ thời Viêm Đế Thần Nông truyền xuống. Nước Xích Quỷ sau nầy trở thành Bắc Văn Lang khi nhà nước Văn Lang ra đời). Cha Trời, Mẹ Trời dẫn theo 100 người con từ trên đám mây từ từ hạ xuống một vùng đất bằng phẳng, sông, suối, ao hồ, liên khúc, nước trong văn vắt, núi, rừng san sát hoa quả xum xuê, phù hợp cho cuộc sống con người sanh sôi nẩy nở, bốn mùa tám tiết lúc nào cũng có quả ngọt khắp nơi.
3 - Nhìn những dãy đồi bạt ngàn, rừng xanh mênh mông xa thẳm bát ngát, địa cuộc khắp nơi thế RỒNG CUỘN, HỔ NGỒI, QUI ĐỊNH, PHỤNG AN, Chim muôn vạn thú ở đây đông vô số vô biên, nhất là loài khỉ, loài vượn, loài tinh tinh hàng trăm đàng hàng vạn con.
4 - Một hôm ĐỊA MẪU ÂU CƠ, nhìn đàn con khôn lớn hào quang dần dần biến mất, là do ăn hoa quả, uống nước sông nước suối làm tăng thể chất phàm tục, mẹ ÂU CƠ không lấy đó làm buồn, mà cho đó là các con đang đi vào lẽ sống của hồng trần, nhìn các con khôn lớn chúng có thể nghe có thể hiểu, bằng nói với ĐỨC CHA TRỜI rằng, ông hãy dạy văn hóa ngôn Ngữ đầu tiên của nhân loại con người, để các con Chung sống cùng nhau, hiểu biết nhau, tiến hóa ý thức nhận thức, sức mạnh tối cao của con người.
VĂN HÓA NGÔN NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN LOẠI CON NGƯỜI
Đức Long Hoa Cha Trời cũng đã nhận thấy các con cần phải có Văn Hóa ngôn ngữ, là thứ văn hóa rất cần cho đời sống con người, nhờ vào văn hóa ngôn ngữ con người tiến hóa ý thức nhận thức nhanh chóng khai mở trí tuệ, sức mạnh tối cao của con người, ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, lấy mặt đất làm giấy lấy Cành cây làm viết, vẽ họa ra nhiều hình tượng, biểu tượng ra ni.
5 - Và cũng từ đây sự sanh hoạt hằng ngày một trăm người con của đức Cha Trời, thường trao đổi với nhau. Bằng ngôn từ ngữ ý pháp ý RA NI, Múa tay, động chân, nháy mắt, gục đầu, nhí mũi, nhún vai, lắc đầu, đi, đứng, nằm, ngồi, mà diễn ý trao lời.
6 - Cũng như một nhóm người câm họ sống chung với nhau, và hiểu được nhau qua biểu thị RA NI. Sự sanh sống như thế đã trải qua nhiều năm, tích lũy kinh nghiệm, ý thức nhận thức liên tục tiến hóa phát triển, tình cảm yêu thương, ganh ghét, giận hờn, mưu trí, khôn lanh, đối nhân xử thế, những đức tánh con người liên tục phát triển nhanh chóng không ngừng. Không bao lâu thì sự tinh tế khôn khéo ấy đạt đến cảnh giới xảo thuật, nghệ thuật, về ngôn từ qua hành động bằng biểu thị RA NI, đạt đến cảnh giới diễn ý trao lời vi tế khi hai người đàm thoại cùng nhau thì cũng là lúc chín mùi tiến hóa chuyển sang giai đoạn thuật ngữ ÂM PHÁP RA ĐỜI thay lần cho biểu thị ra ni. Đánh dấu một bước ngoặt chuyển đổi lịch sử phát triển Văn Hóa đời sống của nhân loại con người.
Hết phần 3 chương 2
Mời các bạn xem tiếp phần 4 chương 2
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
-
CHƯƠNG 2
PHẦN 4
VĂN HÓA ÂM PHÁP THUẬT NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN LOẠI CON NGƯỜI
1 - Nhìn đàn con trẻ nô đùa nhảy múa tung tăng lòng MẸ ÂU CƠ, CHA LẠC LONG QUÂN cũng vui lây theo con cái, hằng ngày sống chung cùng Cha Mẹ nên một trăm anh em vui đùa thỏa thích không lo lắng gì cả. ĐỨC CHA TRỜI nhận thấy đã đến lúc chuyển sang giai đoạn mới giai đoạn âm pháp, để cho ý thức nhận thức con cái tiến hóa lên một tầm cao mới, nhận thức sâu xa hơn nữa, nhận thức về mình về cuộc sống, về cộng đồng, cuộc sống tôn ti trật tự con người.
2 - Để cho con cái mau chóng tiếp thu ÂM PHÁP đức cha trời bằng dùng thuật ngữ thần thông truyền dạy cho con cái cách phát âm hình thành tiếng nói, cách đánh dấu đặt tên cho người, cho vật, cho côn trùng, thảo mộc, muôn loài bò sát, cầm, thú, sông núi, ao hồ, biển cả, thiện ác...
3 - Nhờ vào văn hóa ngôn ngữ RA NI, TƯỢNG, HÌNH, GẠCH, DẤU tiến tới văn hóa THUẬT NGỮ ÂM PHÁP Đánh dấu, đặt tên muôn loài vạn vật, biến động, thiên nhiên. Tiến hóa phát triển, sanh, trụ, dị, diệt, phản ảnh hiện thực, tác động vào ý thức nhận thức của con người, cũng như sự sanh hoạt hằng ngày, thường trao đổi với nhau, thể hiện tình cảm, nhu cầu cuộc sống. Cứ thế con người nhờ vào hai loại văn hóa, văn hóa ngôn ngữ RA NI, và văn hóa THUẬT NGỮ ÂM PHÁP, trải qua nhiều ngày, nhiều tháng nhiều năm, đạt đến cảnh giới diễn ý theo lời nói, mưu trí khôn lanh vượt xa các loài cầm thú, cứ thế phát triển ý thức, nhận thức không ngừng, và đạt đến cảnh giới của sự vi tế về ý tứ, nhân cách. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Văn Hóa nghệ thuật, xảo thuật khôn ngoan của ý thức nhận thức con người.
4 - Cũng vì sự nâng cao kiến thức, dẫn đến phân biệt chấp trước, phân biệt màu da nên ĐỨC CHA TRỜI thường thấy các con không được đoàn kết cho lắm, DA VÀNG theo da vàng, DA TRẮNG theo da trắng, DA ĐEN theo da đen, DA ĐỎ theo da đỏ, DA CHÀM theo da chàm, sự phân biệt màu da, càng về sau càng lớn cũng như sự xung khắc của KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ, dẫn đến đối nghịch nhau chia rẽ nhau, đức cha trời thấy thế liền phán truyền dạy rằng.
ĐỒNG BÀO MỘT BỌC
5 - Này hỡi các con, các con từ MỘT BỌC mà ra, tuy các con khác màu da, nhưng các con cùng chung một Cội một Nguồn, một Cha một Mẹ, một TỔ TIÊN, một chiếc nôi quả đại cầu, một ngôi nhà chung vũ trụ, các con là ĐỒNG BÀO, là ANH EM, cùng một dòng giống TIÊN RỒNG, tất cả các con đều là con của TRỜI, các con phải biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau để mà sống, đùm bọc nhau để mà vượt qua bao nỗi khó khăn, các con phải có tinh thần đoàn kết, sống vì nhau, tương trợ lẫn nhau, đối xử với nhau thật công bằng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau đó mới chính là cuộc sống của con người, cuộc sống khác với các loài Thú, Cầm, bò sát. Cuộc sống tôn trọng Quyền Tự Do, Quyền Công Bằng, Quyền Bình Đẳng, Quyền Tự Do mưu cầu hạnh phúc, không có sự độc tài độc trị đàn áp lẫn nhau.
CỘI NGUỒN
6 - Các con phải luôn luôn hướng về Cội Nguồn, chính là hướng về sự CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, hướng về ĐỘC LẬP, TỰ DO, hướng về TỰ CHỦ, hướng về SỰ SỐNG Chân Thiện, không có nô lệ ở đây vì các con là Anh Em, là Đồng Bào.
7 - Vì sao các con phải luôn luôn hướng về công bằng, bình đẳng, hướng về tự chủ tự nguyện, hướng về sự sống Chân Thiện. Vì cội nguồn của các con chính là BẢN THỂ LINH GIÁC TỐI CAO VŨ TRỤ, Bản Thể Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ chính là BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG, Bản Thể CÔNG BẰNG, Bản Thể BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỰ CHỦ, TỰ NGUYỆN, BẢN THỂ TỐI CAO CỦA SỰ SỐNG Chân Thiện.
8 - Các con sống mất công bằng, sống mất bình đẳng, sống ĐỘC QUYỀN, ĐỘC TÀI, ĐỘC TRỊ, sống chia rẽ phân biệt màu da chủng tộc là các con tự làm khổ cho các con, tự mình rời xa Cội Nguồn, tự mình phản lại Cội Nguồn của chính mình, trái Thiên Luật, đi ngược Lại Thiên Ý của Ta, các con sẽ không bao giờ gặp lại Cha Mẹ nữa.
QUYỀN CON NGƯỜI
9 - Bản thể linh giác TỔ TIÊN, bản thể CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỰ CHỦ, TỰ NGUYỆN, khi chuyển hóa sanh ra linh hồn của các con, như NƯỚC chuyển hóa sanh ra BỌT NƯỚC, thì linh hồn bọt nước của các con có những thứ quyền mà TỔ TIÊN CÓ. Đó là QUYỀN SỐNG, QUYỀN CÔNG BẰNG, QUYỀN BÌNH ĐẲNG, QUYỀN ĐỘC LẬP, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN TỰ NGUYỆN, QUYỀN DÂN HIẾN, QUYỀN SỐNG, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC, QUYỀN NGÔN LUẬN, QUYỀN TỰ CHỦ, QUYỀN SÁNG LẬP, QUYỀN SÁNG TẠO... Những Quyền bất khả xâm phạm NHÂN QUYỀN CON NGƯỜI, Cao hơn nữa Thiên Quyền Con Người những quyền bất khả xâm phạm. Các con tôn trọng và bảo vệ NHÂN QUYỀN là các con đã đi vào con đường CHÍNH NGHĨA vua của các con chính là Cội Nguồn, BẢN THỂ HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, TỐI CAO VŨ TRỤ. Các con nên biết Nguồn Cội của Nhân Quyền chính là Thiên Quyền. Khi các Con làm Chủ Thiên Quyền thì các Con đã trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Các con không còn sống theo Chủ Nghĩa Cá Nhân hay Chủ Nghĩa Tư Nhân mà đã sống theo Chủ Nghĩa Đại Đồng.
Không có bộ kinh nào linh thiên hơn bộ kinh nầy Nơi nào có Bộ Kinh nầy thì nơi đó có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hằng hà sa số bảo hộ, nhất là che chở cho người trì kinh. Người nào có duyên đọc qua bộ kinh nầy dù chỉ là một lần. Mà không thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa mới là chuyện lạ. Chỉ có một trường hợp duy nhất là người đó không nhớ gì một chữ trong kinh.
Hết phần 4 chương 2
Mời các bạn xem tiếp phần 5 chương 2
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 2
PHẦN 5
CHÍNH NGHĨA
1 - Đức Cha Trời nhìn các con lòng thương yêu vô hạn. Này hỡi tất cả con của Ta, các con từ bọc trứng ÂU CƠ mà ra, không những cùng chung một Cội một Nguồn, mà còn là tình anh em nghĩa Đồng Bào, các con là con người, các con phải khác với loài cầm thú, đó là tấm lòng Quảng Đại, có chí Nghĩa Nhân, có lòng Hiếu Thuận, biết thương yêu đồng loại, biết tha thứ cho nhau, biết hi sinh vì Đại Nghĩa trung thành theo lẽ phải, đoàn kết đùm bọc cho nhau, nâng đỡ, giúp đỡ nhau khi lâm nạn, lối sống con người khác hơn lối sống của loài cầm thú, chính là lối sống Chính Nghĩa lối sống có đạo có đức, (xem Kinh Nhơn Luân Hiếu Nghĩa sẽ nói rõ hơn).
2 - Này hỡi các con của Ta, các con nghe theo lời dạy của Ta các con chỉ cần làm được một nửa, thì các con sẽ được làm vua làm chúa ở các tầng trời, cõi trời. Sống trong thế giới châu báu, hạnh phúc vô tận vô biên.
3 - Các con chỉ cần làm được một lời Ta dạy, thì các Con sẽ được làm vua làm chúa chốn phàm trần. Nếu các con làm theo hai, ba, bốn, lời ta dạy, thì các con sẽ làm vua lớn trên các vua nhỏ, làm chúa lớn trên các chúa nhỏ. Nếu các con chỉ cần nghe theo, tin theo một lời hoặc nhiều lời Ta dạy, chỉ cần được một thời gian, nhất là thời gian ở cuối đời, thì các con sẽ được làm các vị thần may mắn, vị thần của sự giàu sang, vị thần uy lực, vị thần khoa học sáng tạo, vị thần hạnh phúc, vị thần trí tuệ, vị thần của vạn sự may mắn, và còn nhiều các vị thần nữa, nói chung vị thần nào vị thần nấy địa vị công danh rực rỡ.
4 - Huống chi các con nghe theo làm theo trọn đời lời Ta dạy thời phước báo không thể nghĩ bàn, các con mãi mãi là vua là chúa khắp các tầng trời, sống mãi trên thiên đàng cực lạc.
5 - Nếu các con chỉ cần nghe qua lời Ta dạy tuy chưa làm theo, nhưng không quên thì các con cũng sẽ sanh lên các tầng trời, làm thiên chúng, làm dân ở các cõi trời tưởng ăn có ăn tưởng mặc có mặc muốn gì có nấy, cầu chi đặng Nấy, có nhiều phép lạ để vui chơi.
6 - Nếu các con chỉ cần nghe lời Ta dạy nhưng sau đó lại quên, thì các con cũng sẽ trở thành các vị thần, Thiên thần, địa thần, làm chủ NHẬT, NGUYỆT, TINH TÚ, làm chủ núi non, đất đai, sông, hồ, biển cả gió, lửa, tuyết, mây.
7 - Nếu các con chỉ khen một lời Ta dạy, thời các con sẽ trở thành những người thông thái, học đâu nhớ đó, lắm nhiều tài hay thiên tài, sanh ra nơi đâu thời Quỉ Thần, Người, đều kính trọng.
8 - Nếu các con chỉ cần truyền lại một lời Ta dạy, thì Đời đời kiếp kiếp ta sẽ luôn luôn ở bên các con, phù hộ cho các con, khai sáng trí huệ cho các con, cho đến khi nào các con ngộ được CHÂN TÂM thấy được CHÂN TÁNH, trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, làm chủ chân tâm chân tánh làm chủ vũ trụ.
9 - Nếu các con tôn thờ TỔ TIÊN, CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, lại truyền dạy lời Ta dạy cho thế hệ mai sau, thời các con sẽ trở thành PHẬT TỔ, THÁNH TỔ, TIÊN TỔ, THẦN TỔ, THIÊN CHÚA TỔ. Năm ngôi vị CHÍ TÔN VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, thay thế Ta chuyển đại pháp luân vũ trụ, tà chánh, siêu đọa hai nẻo, phước họa hai đường.
10 - Này các con của Ta, nếu các con làm ngược lại lời Ta dạy, thì đi vào bất hiếu nghịch thiên, tai họa giáng xuống không sao kể xiết, các con sẽ biến thành ÁC QUỶ, MA TINH, các con sẽ trở thành chủ nhân của vô minh, bóng đêm và sự chết chóc.
11 - Các con sẽ tạo ra thế giới ĐỊA NGỤC thế giới của sự chết chóc, tra tấn, hành hình, ăn sắt, uống đồng khốn khổ, sự khổ không ngừng dù chỉ là một giây, nếu các con đi ngược lại lời Ta dạy, đi theo con đường ác thì các con sẽ biến thành ÁC QUỶ, ÁC MA, YÊU TINH, chúa tể VÔ MINH làm cho các con kiệt sức khốn khổ vì chiến tranh, khốn khổ vì luân hồi đọa lạc, đày đọa xuống địa ngục, đày đọa trở lại súc sanh, cầm, thú, linh hồn các con trở thành linh hồn cống cao ngạo mạn, tham lam gian trá, ganh ghét, hận thù, lạc vào con đường chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa của sự độc quyền, độc tài, độc trị, gây ra bao cảnh oán than, bao cảnh nồi da nấu thịt anh em tàn sát lẫn nhau (xem Kinh Nhơn Luân sẽ nói rõ hơn).
12 - Chúa tể U Minh sẽ biến linh hồn các con thành những linh hồn ngu si, mê muội, mãi mãi đi sâu vào tội ác để cho linh hồn các con mãi mãi nhận lấy quả báo kinh hoàng, khốn khổ tận cùng của sự khổ.
13 - Chiến tranh đẫm máu, tàn sát lẫn nhau, là thú vui của ác Quỷ, ác Ma là làm cho thế giới tang tóc với những thảm cảnh áp bức, đàn áp dã man, những vương quốc nhà tù chôn vùi cuộc sống. Kết quả cuối cùng thì linh hồn ác ma và ác quỷ cũng chỉ là linh hồn nô lệ, nô lệ cho tham lam, cho hận thù, và sự mê muội mà thôi.
14 - Những thảm cảnh địa ngục trần gian, binh đao máu lửa, chết chóc chia ly, nô lệ tù đày, là bức tường u minh, ngăn cản con người không cho con người tìm thấy chân trời hạnh phúc, nhưng các con nghe lời Ta dạy thời bức tường u minh kia, trở thành hành trang ngọc ngà châu báu trên chặn đường giác ngộ.
15 - Chúa tể của U Minh chúng rất sợ ánh sáng Chính Nghĩa, nhất là ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác của tâm linh, chúng không bao giờ muốn cho các con tiến lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, vào năm ngôi báu vũ trụ, vì năm ngôi báu ấy luôn luôn tỏa ánh sáng CHÍNH NGHĨA, ánh sáng CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC làm chúng khiếp sợ.
16 - Nếu các con đi ngược lại lời Ta dạy, không những các con đi vào con đường ác đạo, ác lai ác báo, mà các con sẽ bị Vô Minh xoay chuyển mãi mãi đi sâu vào con đường ác đạo, các con không bao giờ tìm thấy các tầng trời, các con không bao giờ nhìn thấy thiên đàng cực lạc, cũng không bao giờ nhìn thấy con đường Chính Nghĩa, cũng không bao giờ nhìn thấy Chân Tâm Chân Tánh của chính mình.
17 - Các con chỉ thấy sự giả dối, sự chết chóc, chiến tranh và hận thù, các con luôn luôn nếm đủ mùi khốn khổ và đau đớn.
18 - Đau đớn khốn khổ về thể xác, đau đớn khốn khổ về linh hồn, đau đớn cảnh nồi da nấu thịt, cha khóc con, con khóc cha, vợ khóc chồng, chồng khóc vợ, anh em cấu xé tàn sát lẫn nhau. Nước mắt của các con kiếp nấy sang kiếp khác cộng lại nhiều hơn nước cả đại dương.
19 - Các con hôm nay đã được làm người, lại là con của hai đấng Tiên Rồng Cha Trời, Mẹ Trời tối cao vũ trụ. Sự nghiệp giàu sang vô tận, cái giàu không sao kể xiết, vàng bạc châu báu đầy cả hư không tam thiên đại thiên thế giới, đó là các tầng trời.
20 - Các con đã là con của Ta, chỉ cần nghe lời Ta dạy thì các con sẽ thay Ta làm chủ vũ trụ, sống trong bất tử và sự giàu sang, nếu các con không nghe lời Ta dạy thì đáng tiếc biết bao.
21 - Hỡi các con của Ta, ta là đấng Cha Trời, đấng biết trước những gì xảy ra trong tương lai. Ta đều thấy rõ biết rõ, vì vậy các con phải tuyệt đối tin tưởng ở Ta. Vì Ta là Cha của các con, và cũng là Đấng chúa tể vũ trụ, đấng thương yêu các con hơn hết, những gì Cha có những gì Cha tạo ra đều là của các con.
22 - Nhưng các con muốn có được nó, muốn làm chủ giang san vũ trụ, thì các con phải có tài, có trí, có đức, có bi, có lực, có hùng, nắm bắt nguyên lý vũ trụ, áp dụng khoa học vũ trụ, vận dụng sức mạnh vũ trụ, nương theo sức mạnh vũ trụ, làm sức mạnh của mình. Thì các con mới làm chủ được con quái vật vũ trụ, những người con có đức, có trung, có hiếu, có tâm, có nghĩa, có nhân, đối với TỔ TIÊN, CỘI NGUỒN, luôn nghe theo và làm theo lời Ta dạy. Thì Ta lúc nào cũng ở bên các con, phù hộ các con, giúp sức các con, khai trí mở trí cho các con mau đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác, thay thế ta điều hành vũ trụ làm chủ vũ trụ.
23 - Còn những người con nghịch thiên, đi ngược lại lời Ta dạy, dù có làm nhiều, ra sức nhiều, tóm thâu nhiều, vơ vét khắp thiên hạ vũ trụ, cuối cùng chỉ là trắng tay.
24 - Nếu các con nghe lời Ta dạy, các con sẽ luôn luôn gặp ta ở khắp mọi nơi, lúc nào ta cũng che chở, và dìu dắt các con, dù cho các con có trải qua vô lượng ức kiếp sanh tử, ta cũng theo sát các con, hộ trì các con, cứu khổ các con, làm cho trí huệ các con mỗi ngày một thêm tỏa sáng, tiến đến làm chủ chân tâm chân tánh, phát đại nguyện rộng lớn tận độ vô lượng vô biên lớp lớp con cháu nhân loại các thế hệ sau, vào năm ngôi báu ngôi PHẬT, ngôi THÁNH, ngôi TIÊN, ngôi THẦN, ngôi CHÚA.
25 - Các con hạnh nguyện viên mãn, bọt nước trở về là nước, thức tâm thức tánh trở về chân tâm chân tánh. Tiểu linh hồn trở về ĐẠI LINH HỒN vào pháp thân bình đẳng ĐẠI ĐỒNG VŨ TRỤ, bản nguyên là đấng TẠO HÓA, tổ tiên tối cao vũ trụ ĐẤNG TẠO LẬP lên tất cả.
26 - ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ, thấy 100 người con chăm chú lắng nghe ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI dạy bảo nên lấy làm hài lòng, thì nghĩ rằng các con đã lớn khôn. Chúng nó có thể sanh sống tự lập được, không cần nương dựa vào Cha Mẹ nữa.
Trên con đường chinh phục chiến thắng Vô Minh, trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác, làm chủ vận mệnh, làm chủ linh hồn, làm chủ xã hội, làm chủ khoa học, khoa học vũ trụ Tâm Linh, khoa học vũ trụ vật chất, làm chủ Thiên Luật, theo Thiên Ý của Đức Cha Trời. - Các bạn chỉ cần hiểu một câu một từ trong kinh thì các bạn thường cầu chi đặng nấy. Huống chi là đọc tụng, ấn in truyền bá cho đời. Thì công đức của các bạn phải nói là không thể nghĩ bàn cho hết được, làm vua trời cũng là chuyện nhỏ đối với các bạn. Huống chi là muôn kiếp tới làm vua ở chốn nhân gian. Long Hoa Thiên Tạng là bộ kinh tối linh thiêng chỉ cần một niệm thất kính thì tai họa tới ngay. Muôn đời vạn kiếp khó mà sanh trở lại làm người.
Hết phần 5 chương 2
Mời các bạn xem tiếp phần 1 chương 3
Long Hoa Thiên Tạng
* * *
CHƯƠNG 3
PHẦN 1
MỞ MANG KIẾN THỨC
Địa Mẫu Âu Cơ nhìn các con có thể tự lập sanh sống không cần nương dựa vào Cha Mẹ nữa, biết mình không thể ở lâu nơi trái đất, Đức cha trời LẠC LONG QUÂN, ĐỊA MẪU ÂU CƠ chia hai con cái, năm mươi người con theo cha làm quen với biển đảo, năm mươi người con theo mẹ làm quen với núi rừng đại ngàn.
1 - Đức cha trời LẠC LONG QUÂN dẫn 50 người con trai làm quen với biển đảo, từ biển nầy sang biển khác, từ đảo nọ sang đảo kia, hết đất liền rồi dạo chơi dưới đáy đại dương, cứ như thế từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông rồi trở về chỗ cũ cũng đã hết mười năm trời, ĐỨC MẸ ÂU CƠ cũng thế, MẸ ÂU CƠ dẫn theo 50 người con gái hết núi rừng đại ngàn nầy, đến núi rừng đại ngàn khác, tham quan các Động, Thác kỳ tích khai tạo của thiên nhiên, hết núi rừng đại ngàn phương Đông rồi đến núi rừng đại ngàn phương Tây, cũng phải mất mười năm rồi trở về chỗ cũ.
2 - ĐỨC CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN, ĐỊA MẪU ÂU CƠ hợp các con lại, rồi tiếp tục dẫn 100 người con cả nam lẫn nữ cùng khắp trái đất, khắp Năm châu bốn biển, bằng con đường tham quan hàng không bay trên mây. 100 Người con Đức Cha Trời, Địa Mẫu Âu Cơ, thấy nào là biển rộng mênh mông, nào là đại ngàn cùng khắp, nào là núi cao chót vót, nào là rừng xanh thăm thẳm bạt ngàn, nào là đảo biển lô nhô lớn nhỏ xanh um, biển cả mênh mông, quả địa cầu cảnh đẹp như tranh, đất liền biển, biển liền đất, sông hồ xen lẫn quanh co uốn khúc. Đúng là trên khô, ôi là chim muôn vạn thú, dưới biển mênh mông ôi là chen chúc cá lội tung tăng, nào san hô, nào hang động, nào thác nước buôn màng lụa trắng.
3 - Hết tham quan trái đất ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN, cùng ĐỊA MẪU ÂU CƠ lại tiếp tục dẫn các con tham quan khắp các vì sao, Thiên Hà, Ngân Hà. CHA TRỜI chỉ mặt trời rồi nói, các con có thấy không. Tức thời Cha Trời phóng một đạo hào quang trong suốt chiếu vào mặt trời, tức thời một trăm người con nhìn thấy mây kim cương trong suốt xoáy tròn khổng lồ lớn hơn trái đất gấp hàng trăm hàng nghìn lần, thu hút thần lực vũ trụ phát ra ánh sáng, trở thành một khối lửa, sức nóng lan tỏa vô cùng dữ dội. Đức Cha Trời nói với các con với sức nóng của mặt trời cũng như sự xoáy tròn với tốc độ khủng khiếp của nó, nó đã chuyển hóa Thần Lực vũ trụ thành Năng Lượng vũ trụ, cũng như với sức nóng của nó đã thiêu đốt tinh lực vũ trụ, thiêu đốt khí lực vũ trụ chuyển hóa thành năng lượng sống vũ trụ. Năng lượng nuôi sự sống của muôn loài vạn vật, Năng Lượng Tinh Lực, năng lượng Tinh Khí hai loại năng lượng nầy, rất bổ ích cho sức khỏe con người nhất là hệ thần kinh cũng như thể lực, nội lực, rất bổ ích cho người tu thiền luyện khí luyện đạo, phần lớn kết tụ nhị xác thân là nhờ ở hai năng lượng nầy.
4 - CHA TRỜI, MẸ TRỜI, lại tiếp tục dẫn con cái bay lên hạ thiên thế giới 6 tầng trời, 100 người con lóa cả mắt bởi đất đai nơi đây toàn là châu báu, nhưng không có dấu chân của con người và các loài cầm thú. Cha trời hiểu rõ những thắc mắc của các con bằng nói: Nơi đây là các tầng trời hạ thiên vũ trụ, không có loài cầm thú nào lên đây được, trừ khi con người dạy bảo cách tu luyện cho chúng, sáu tầng trời nầy là của các con, các con nhớ lấy.
5 - CHA TRỜI, MẸ TRỜI, lại tiếp tục dẫn con cái bay lên 18 tầng trời trung thiên vũ trụ, 100 người con lóa cả mắt, vô cùng kinh ngạc bởi đất đai nơi đây cũng toàn là châu báu, nhưng tỏa sáng rực rỡ khác hẳn châu báu sáu tầng trời hạ thiên vũ trụ, Đức Cha Trời thấy các con có vẻ say sưa thích thú như thế, liền nói mười tám tầng trời nầy điều là của các con, Đức Cha Trời lại dùng thần thông đưa các con bay khắp một tầng trời, lại một lần nữa 100 người con vô cùng kinh ngạc vì thấy một tầng trời rộng lớn như thế, nếu đem so với quả địa Cầu, thì quả ĐỊA CẦU nhân gian chỉ là hòn đá, hòn sỏi so với tầng trời mà thôi, Đức Cha Trời nói tầng trời càng cao thì càng rộng.
6 - ĐỨC CHA TRỜI, MẸ TRỜI, lại tiếp tục dẫn Con Cái bay lên bốn tầng trời thượng thiên vũ trụ, nơi đây chỉ là bốn tầng trời chân không. ĐỨC CHA TRỜI liền phóng một đạo hào quang, tức thời bốn tầng trời thượng giới liền hiện ra, 100 người con nương theo hào quang của đức cha trời, thấy tầng trời cao nhất rộng lớn vô tận vô biên là tầng trời năng lượng thần lực vũ trụ, tầng trời thấp hơn là tầng trời năng lượng tinh lực vũ trụ, tần trời thấp hơn nữa là tầng trời tiên thiên chân khí vũ trụ, tầng trời thấp nhất là tầng trời tiên thiên tinh khí vũ trụ. Đức Cha Trời nói, ở bốn tầng trời nầy tuổi thọ rất cao. Chỉ cần ở cõi trời thấp nhất, tuổi thọ cũng đã hơn quả địa cầu nhân gian, huống chi cõi trời năng lượng thần lực vũ trụ, cõi trời cao nhất thời tuổi thọ ngang bằng vũ trụ, 100 người con nghe cha giảng dạy nhưng không lấy gì hiểu cho lắm, nhưng cũng cố nhớ tin lời cha dạy. Đức Cha Trời nói: Cha sẽ dẫn các con đến một nơi trái ngược lại những gì con đã thấy, đó là 18 tầng ĐỊA PHỦ, tức thời Cha Trời liền phất tay một cái nháy mắt đã đến 10 tầng địa phủ từ tầng số một đến tầng số mười, 100 người con vô cùng hoang mang sợ hãi nhất là những người con phái yếu, vì thấy các tầng địa phủ, càng xuống các tầng địa phủ càng sâu thì sự tối tăm càng lớn, tầng địa phủ thứ nhất còn khá tuy đất đai toàn là đất sắt, đất kẽm, đất chì, đất đồng, đất nhôm, nhưng còn dễ thở, sự sống ở cõi nầy toàn là linh hồn của các loài bò sát, cầm thú, đã biến thành yêu tinh quỷ dữ, chúng tàn sát với nhau thật là ghê gớm. Còn các tầng địa phủ từ tầng thứ hai trở xuống tới tầng thứ mười chỉ là những tầng đất không, càng xuống sâu các tầng địa phủ không những không có ánh sáng mà sự tanh hôi của hơi đất sắt thép kẽm chì, cũng như hơi lạnh thấu xương, làm cho con người càng thấy ớn lạnh, 100 người con nói với Cha Trời Mẹ Trời rằng: Chúng con không muốn tham quan các tầng Địa Phủ dưới sâu nữa, thưa Cha Mẹ những tầng địa phủ nầy TỔ TIÊN khai lập để mà chi. Cha Trời nghe các con hỏi liền nói: Những tầng địa phủ nầy, Tổ Tiên lập ra là để cho những người làm ác ở, ác ít thì ở tầng số 1, ác nhiều hơn thì ở tầng số 2, cứ thế ác càng nhiều thì đọa xuống các tầng Địa Phủ sâu hơn, từ tầng thứ 11 trở xuống thì những người đại ác đọa xuống để ở. Nói xong Cha Trời dùng pháp thuật thần thông đưa các con dạo khắp tầng địa phủ thứ 10, 100 người con thấy tầng địa phủ thứ 10 rộng quá rộng hơn quả địa cầu gấp vạn vạn lần thì vô cùng kinh hãi, đức cha trời nói các tầng địa phủ càng xuống sâu càng rộng. Cha Trời nhìn 100 người con nói: 18 tầng Địa Phủ Sau nầy, những con người làm ác sẽ xây lên vô số vô biên xã hội âm phủ, trong xã hội âm phủ có địa ngục âm phủ, các tầng địa phủ khác cũng vậy, sự sống ở xã hội âm phủ đã khốn khổ rồi, mà còn thêm địa ngục âm phủ nữa thì khốn khổ biết là bao, địa ngục âm phủ, là sự sống vô cùng thảm khốc, không những đói khát, mà còn bị tra tấn khủng khiếp hết sức dã man do những cai ngục Ác hành lấy Ác tạo ra. Thấy dẫn các con tham quan mở mang kiến thức đến đây là đủ, Cha Trời, Địa Mẫu Mẹ Trời liền dẫn các con trở lại trần gian, trở về trái đất, trở về chỗ cũ, thời gian tham quan ấy đã trải qua hơn một nhìn năm. Sao có chuyện lạ như thế vì lúc ở trên bốn cõi trời thượng giới chỉ cần ở một giờ bằng trần gian cả 100 năm. Với 1000 năm tham quan 28 tầng trời 18 tầng địa ngục chỉ là sự tham quan chớp nhoáng vừa thấy xong thì đi đến nơi khác.
7 - Một Trăm người con theo Cha Mẹ trở về trái đất - ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ, nhìn các con uy nghi hùng dũng trí tuệ đã lớn khôn, Đức Địa Mẫu Âu Cơ ngẫm nghĩ các con của Ta đã hơn một nghìn mấy trăm tuổi, chúng nó tuy chưa trưởng thành nhưng cũng đã lớn có thể tự lập được, Ta không còn ở lại với các con được nữa, Ta sẽ trở về hư không vũ trụ, bằng nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng: Ông hãy dạy bảo các con lần cuối đi. Đức Cha Trời cũng nghĩ là mình cần phải xa con cái bằng kêu gọi các con lại dạy bảo lần cuối.
8 - Nầy các con của Ta, cha và mẹ là hiện thân của Đức Tổ Tiên, ví như Nước, hiện thân ra Bọt nước, từ vô tướng vô sắc, hiện thân ra hữu tướng hữu sắc, vì thế cha mẹ sắp trở về thật tướng thật tánh của chính Mình, tức là thật tướng thật tánh hư không vũ trụ. Bản Thể linh giác tối cao Tổ Tiên của các con, TỔ TIÊN các con thân tướng như hư không chỗ nào cũng có, các con không thể nào thấy được dù ở ngay trước mắt của các con, khi nào các con trở thành chánh đẳng chánh giác, thì các con thấy biết một cách rõ ràng. Tổ Tiên các con tạo lập lên quả địa cầu nầy chỉ là quả địa cầu trần gian giả tạm chỉ là chiếc nôi nơi sanh ra các con mà thôi, quả địa cầu được tạo lập sau cùng khi tạo lập lên vũ trụ tam thiên đại thiên Thế Giới. Các con đang sanh sống trong chiếc nôi nhỏ bé cõi phàm trần giả tạm, không phải là cõi vĩnh hằng, mà cõi vĩnh hằng của các con, chính là các cõi thiên đàng cực lạc, ở khắp các tầng trời mà các con đã nhìn thấy. Không những các con đang sanh sống trong cõi trần giả tạm, mà thân xác của các con cũng chỉ là thân xác phàm trần phàm tục giả tạm mà thôi, chỉ sống được 8 muôn 4 nghìn tuổi, nếu tu luyện thì thọ trên 100 Nghìn tuổi rồi cũng phải bỏ thân xác nầy đến thân xác khác mà thôi. Thân xác của các con khác với thân xác của Cha Mẹ, vì thân xác của các con là thân xác tinh hoa khí hóa của phàm trần, nên tuổi thọ rất ngắn không giống như thân xác Cha Mẹ là thân xác Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ Tuổi thọ vô biên muốn có là có muốn không là không Đều theo ý muốn của chính mình.
9 - Các con sanh ra giữa tiểu kiếp thứ năm đang ở vào giai đoạn cuối kiếp tăng, giai đoạn cực thịnh của Tiên Thiên Chân Khí, nên có sự liên thông nối liền các tầng trời với trần gian, chỉ cần các con tu luyện là kết tụ Nhị Xác Thân được ngay, hủy bỏ thân xác phàm tục bay lên các tầng trời để ở. Nhưng các con phải làm tròn hai thiên chức đạo làm người, một là sanh con đẻ cái, trở thành phụ thân, phụ mẫu, phụ diễn lưu truyền nòi giống con người, hai là truyền dạy cho con cái những lời Ta đã dạy cho các con, tiểu công là truyền dạy đến ba đời, lập ĐỨC TÔN, các con trở thành ÔNG BÀ, trung công là bảy đời, đại công là chín đời, nói chung là các con lưu truyền nòi giống, đi đôi với lời dạy của Ta, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, (xem Kinh Nhơn Luân Hiếu Nghĩa sẽ nói rõ hơn về nhân cách tu luyện đạo đức) (cũng như Kinh Long Hoa Mật tạng sẽ nói rõ về cách tu thiền luyện khí).
10 - Cha Trời dạy: Khi các con tu luyện kết tụ nhị xác thân cũng như truyền dạy những lời Ta dạy. Dạy lại cho con, cháu, chắt, chít, không những các con làm tròn đạo làm Ông làm Bà, đạo làm Cha làm Mẹ, mà còn tiến hóa ý thức nhận thức, thành tựu trí tuệ giác ngộ, thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, vào năm ngôi báu vũ trụ, tiến tời làm chủ chân tâm chân tánh vào ngôi chánh đẳng chánh giác, năm ngôi CHÍ TÔN vũ trụ, PHẬT TỔ, THÁNH TỔ, TIÊN TỔ CHÚA TỔ, THẦN TỔ, CHÚA TỔ. Cao lên nữa là Phật Tổ Tổ, Thánh Tổ Tổ, Tiên Tổ Tổ, Thần Tổ Tổ, Chúa Tổ Tổ. Và đỉnh cuối cùng là Phật Tổ tổ tổ, Thánh Tổ tổ tổ, Tiên Tổ tổ tổ, Thần Tổ tổ tổ. Những chặn đường tiến về phía trước là như thế các con nhớ lấy. Điều tốt đẹp nhất của con người là cứu nhân độ thế các con hãy ghi nhớ lời Ta dạy.
11 - Cha Trời dạy: Mỗi con người được sanh ra nhất là những con người có địa vị trong cuộc sống thời điều có ba cái tên thường gọi, vì sao lại có ba tên thường gọi như thế, vì con người là sự sống của tập thể, sự sống của gia đình và sự sống của bản thân khi được sanh ra. Một là tên tộc, tên bản thân, HAI là tên gia đình tên khi đã sanh con, BA là uy danh tên địa vị xã hội trong cuộc sống, và Cha Mẹ đây cũng không ngoài ngoại lệ ấy.
12 - Tên tộc của Cha là LONG HOA CHA TRỜI.
Tên Cha khi đã có con là LẠC LONG QUÂN.
Tên uy danh của Cha là LONG HOA CỬU HUYỀN. THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI.
Tên tộc của Mẹ các con là TIÊN CƠ.
Khi sanh ra các con, là ÂU CƠ.
Uy danh của Mẹ các con là TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI.
13 - Cha cốt Rồng Mẹ cốt Tiên, tên của các con NAM gọi là QUÂN vừa là vua, vừa là dân, VUA cũng chính là DÂN, tùy các con lựa chọn, tên của các con NỮ gọi là CƠ, nói đến sự tài đức ứng biến của người phụ nữ, chỉ một chữ Cơ cũng không thể nào luận bàn cho hết được, quân cơ, binh cơ, thiên cơ, huyền cơ, cơ cảm, ứng hóa, linh cơ, thời cơ, không có cơ thời khó mà làm nên việc gì. Có Quân có Cơ thì việc gì cũng làm được. Sức mạnh của Quân Cơ chính là Quân Binh các con hãy nhớ lấy.
14 - Trước khi hai đấng TIÊN RỒNG từ giã con cái đức Cha Trời Lạc Long Quân, chỉ tay về dãy núi Long Hoa nói, cuối tiểu kiếp thứ chín, sắp chuyển sang tiểu kiếp thứ mười, các con hãy khiến dẫn con cháu của các con, tìm về dãy núi Long Hoa tức là Địa Long làm nhà Rồng Tiên trở về vũ trụ.
15 - Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo con cái xong Cha Trời Mẹ Trời hai người ôm lấy các con lần cuối, trong tình yêu thương vô hạn, hai tòa sen báu như hai quả núi nhỏ từ từ bay đến hào quang rực rỡ không biết đã hiện ra từ lúc nào, hai đấng TIÊN RỒNG bỗng nhiên cao lớn dị thường, như hồi mới đến trái đất, hai người nhìn các con lần cuối từ từ bay lên hai tòa sen. Bầu trời đang trong sáng bỗng nhiên tối sầm thế gian rơi lệ vì hai đấng Tiên Rồng Cha Trời, Địa Mẫu đã ra đi, hai tòa sen báu từ từ bay vào chốn hư không xa dần xa dần rồi mất hút, trước cảnh chia ly đầy xúc cảm, cũng như sự ngơ ngác của đàn con, hai trăm con mắt cứ nhìn theo và nhìn mãi.
16 - Đất trời hôm qua khác với đất trời hôm nay, đất trời hôm qua là đất trời mùa xuân, đất trời hôm nay là đất trời mùa đông, bao trùm cái lạnh bơ vơ cái lạnh của sự nhớ thương không biết bao giờ gặp lại Mẹ Cha. Cái lạnh của sự mồ côi mồ cút, trên nẻo đường muôn vạn dặm của cuộc đời.
* - Nơi vũ trụ, có ba ngôi tối cao đó là TỔ TIÊN KHAI HÓA, ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ. Ba đấng tối cao nầy không những tối đại linh thiên, chỉ cần thành tâm nghĩ đến là ứng nghiệm linh ứng ngay, mà còn là ba đấng quyền lực vô biên, quyền năng vô hạn, không những khai tạo lập lên vũ trụ, tạo lập lên tam thiên đại thiên thế giới, các tầng trời, trần gian, cũng như các tầng địa phủ, mà còn tạo lập lên tất cả sự sống, nhất là khai tạo ra con người, giống động vật cao cấp nhất vũ trụ, nòi giống tiên rồng, nòi giống thay thế ông cha làm chủ vũ trụ, tạo lập lên cảnh giới thiên đàng cực lạc.
* - Thời kỳ thượng Tam Hoàn là thời kỳ TỔ TIÊN hiện thân ra con người, hiện thân ra ĐỨC CHA TRỜI, THIÊN HOÀN, hiện thân ra ĐỨC MẸ TRỜI, ĐỊA MẪU HOÀN. Như vậy thời kỳ thượng Tam Hoàn là thời kỳ TỔ TIÊN HOÀN, THIÊN HOÀN, ĐỊA MẪU HOÀN, thời kỳ hiện thân ra rồi HOÀN TRỞ LẠI, ví như nước hiện ra bọt nước rồi từ bọt nước tan biến trở về là nước. Có thể nói thời kỳ thượng Tam Hoàn ra đời, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người cho đến khi kết thúc kéo dài hơn một nghìn mấy trăm năm.
* - Còn hậu Tam Hoàn, là nói về con cái nhà TRỜI, làm vua làm chúa khắp cùng vũ trụ THIÊN HOÀNG NGỌC ĐẾ, MẪU HOÀNG VƯƠNG MẪU, TIÊN HOÀNG TIÊN CHÚA, nói chung là thời kỳ NHƠN HOÀNG. SAU TAM HOÀN, Thời kỳ hậu TAM HOÀN là thời kỳ NHƠN HOÀNG, 100 NGƯỜI CON CỦA TRỜI, TIỀN TỚI THỜI KỲ PHÂN CHIA NGŨ ĐẾ:
1 - LÀ THANH ĐẾ, DA CHÀM.
2 - LÀ BẠCH ĐẾ, DA TRẮNG.
3 - LÀ XÍCH ĐẾ, DA ĐỎ.
4 - LÀ HẮC ĐẾ, DA ĐEN.
5 - LÀ HOÀNG ĐẾ, DA VÀNG.
Hết phần 1 chương 3
Mời các bạn xem tiếp phần 2 chương 3
Long Hoa Thiên Tạng
* * *